RỘNG MỞ TÂM HỒN ĐÓN NHẬN TẤT CẢ
Ni sư Tenzin Palmo
Ni sư Tenzin Palmo
Ni Sư Tenzin Palmo đã tự trồng hoa mầu để làm thực phẩm và đã ngủ ngồi trong hộp thiền bằng gỗ có kích thước một mét vuông (three-feet square). Ni sư không bao giờ nằm. Mục tiêu của Ni Sư là đạt được giác ngộ trong thân xác của một phụ nữ. Đây là một kỳ tích độc nhất vô nhị vì ở Tây Tạng , không bao giờ có Nữ Đạt Lai Lạt Ma hay Nữ Sư Trưởng. Lời nguyện cầu chính của hầu hết người phụ nữ Tây Tạng là muốn tái sinh thành thân nam. Chính một vị Lạt ma cao cấp đã giảng dạy là phụ nữ thì bất tịnh và có cơ thể thấp kém.
Dù có 12 năm ẩn tu trong động núi nhưng bài giảng của Ni Sư Tenzin Palmo mang tinh thần NHẬP THẾ . Với cách đối duyên , tiếp cảnh , ĐI XUYÊN QUA THẾ GIAN , qua tiếp xúc với mọi người , là thướt đo đạo lực nhằm đưa đến giải thoát , chứ không lánh đời , quay lưng với bá tánh. Ni Sư Tenzin Palmo nói : " Bất cứ sự thực hành Ba La Mật nào cũng phải liên hệ và tương tác với mọi người ". Thật là chí lý. Cũng như việc làm chủ hơi thở từng satna , không chấp thân , với tâm rộng mở quảng đại từ bi.
Thời nay mạt pháp có một vị Ni Sư Tenzin Palmo là bậc chân tu như thế này thật hiếm hoi. Rất nhiều vị Sư Việt - Tây - Tàu thuyết giảng thiên kinh vạn quyển nhưng hầu hết đều xa rời cội nguồn của PG , mang tính quảng bá , hơn là thực chứng tâm linh đạo quả.
TAT
Tại
sao chúng ta luôn chấp trì vào ý nghĩ rằng cuộc sống phải luôn thanh
bình, êm ả? Rất nhiểu người cho rằng chúng ta chỉ có thể thực hành Phật
pháp khi không có bất cứ chướng ngại nào bên ngoài cũng như bên trong,
rằng tu tập chân chính chỉ có thể thực hiện trong những kỳ chuyên tu
nhập thất hay chí ít cũng phải đến chùa, tự viện hay các trung tâm Phật
pháp. Trong đời sống thường nhật, bị áp lực thời gian, bất mãn với hàng
loạt gánh nặng gia đình và công việc, mỗi ngày, chúng ta đều cảm thấy bế
tắc, thậm chí tuyệt vọng. Vì tin rằng tu tập nghĩa là phải có thời gian
để chuyên nhất quán tưởng, lễ lạy, thực hiên các nghi lễ cúng dàng hay
tâm linh khác, v.v…, chúng ta càng tin tưởng mình còn thiếu thiện duyên.
Ta vẫn tự nhủ "Làm sao mình có thể trở thành một hành giả chân chính
nếu không có thời gian để thực hành?" Tuy nhiên, đây là một cách hiểu về
việc thực hành Phật pháp hoàn toàn thiếu thực tế, sai lầm .
Chúng ta hãy kiểm nghiệm lại pháp tu Lục độ Ba La Mật, mang ý nghĩa sáu phương pháp hoàn hảo gồm: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ
- tất cả đều cần thiết để thành tựu Phật quả. Bất kỳ sự thực hành nào
trong số sáu phương pháp này đều đòi hỏi chúng ta phải liên hệ và tương
tác với mọi người. Nói cách khác, để có thể thực hành Lục độ Ba la mật
một cách sâu sắc, chúng ta cần những mâu thuẫn và xung đột trong chính
cuộc sống đời thường. Nếu chỉ ngồi yên nơi tịnh thất và cho rằng mình
đang tràn đầy tình yêu thương cùng các phẩm chất tích cực như vị tha, bao dung, nhẫn nhục thì
đó là điều quá dễ dàng bởi ta chẳng gặp phải bất kỳ thách thức nào.
Nhưng khi xả thất, ta gặp gỡ rất nhiều người trong đời sống thực tế,
những người không đối tốt với ta, không làm theo những điều ta mong
muốn, ta sẽ nhìn thấy mình rõ hơn và bắt đầu hiểu thế nào là thực hành
Phật pháp chân chính.
Chúng ta có thể áp dụng hai cách tiếp cận cơ bản trong quá trình tu tập của mình. Thứ nhất, ta cần học cách sống tỉnh thức mỗi ngày - đây là điều cốt yếu. Thứ hai là học cách rộng mở tâm hồn thông qua thực hành Lục độ ba la mật
đặc biệt là hạnh bố thí và nhẫn nhục. Nếu tâm hồn chúng ta khép chặt,
dù trì tụng bao nhiêu chân ngôn, thực hiện bao nhiêu lễ lạy, thụ nhận
bao nhiêu quán đỉnh, tầm đọc bao nhiêu kinh sách cũng đều vô nghĩa. Nếu
sự hành trì không giúp ta thay đổi một cách đúng đắn, tích cực thì điều
đó hoàn toàn chẳng có ý nghĩa gì.
Vì hay đồng hóa bản thân
với đủ mọi cảm xúc, tư tưởng, thiên kiến và định kiến nên chúng ta
không còn chỗ cho chính mình để có thể nhìn mọi thứ một cách chân xác
trong mọi hoàn cảnh. Đắm chìm trong "vũng lầy" vô minh ấy, ta thường có
những lựa chọn sai lầm trong hầu hết mọi tình huống. Giống như bị quăng
quật, quay cuồng giữa cơn bão biển, cuộc sống cũng tương tự vậy, chúng
ta phải học cách giữ định tâm giữa những bão tố của đời thường. Cách tốt
nhất là tỉnh thức và rộng mở tâm hồn đón nhận khoảnh khắc hiện tại. Như
vậy được gọi là chính niệm. Bậc Đại thành tựu giả Milarepa từng nói
rằng càng trải qua bão tố thăng trầm của hạnh phúc và khổ đau, càng có
cơ hội tu tập và thành tựu giác ngộ trong cuộc đời.
Chúng ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa thực sự của tỉnh thức. Thông
thường, khi chúng ta nghĩ rằng mình đang trong giây phút hiện tại, thực
ra đó là lúc chúng ta đang diễn giải hiện tại, chúng ta suy tưởng về
hiện tại thay vì thực sự ở trong khoảnh khắc thuần túy đó. Chúng ta có
thể tự nhủ "Phải rồi, mình sẽ chính niệm", ta ngồi và nghĩ “Đúng rồi,
mình đang chính niệm đây”. Nhưng như vậy không phải là chính niệm, chẳng
qua là chúng ta đang nghĩ về chính niệm mà thôi. Trong khoảnh khắc
chính niệm thực sự, thậm chí khái niệm về chính niệm cũng không tồn tại.
Chính niệm chỉ đơn giản là sự tỉnh thức trực tiếp, rộng mở. Vì
tâm bị che mờ và lớp lớp vọng tưởng nên hiện tại không thể hiển lộ đối
với chúng ta. Chúng ta có thể cho rằng mình luôn tỉnh thức, thông thái
và khôn ngoan nhưng thực ra phần lớn thời gian chúng ta hành xử như một
cái máy. Bấm nút và nhận kết quả. Tâm đầy ắp những suy tưởng về quá khứ
hoặc tương lai, kẹt mắc giữa những vọng tưởng, mơ mộng, những câu chuyện
được thêu dệt, những ý kiến, những bình phẩm và phán xét – như vậy quá
khó có thể buông bỏ những vọng niệm này để chỉ chú tâm vào những gì đang
thực sự diễn ra. Vì thế, chúng ta cần thức tinh chính mình khỏi cơn mê.
Khoảnh khắc mà ta đạt được tỉnh thức - dù cho đó chỉ là một khoảnh khắc
ngắn ngủi - ta có thể nhận ra mình đã mê mờ. Trong trải nghiệm của tâm
tỉnh thức rộng mở, mọi thứ đều trở nên sáng rõ. Mọi thứ đều thay đổi,
đều được chuyển hóa. Ta nhận ra rằng không chỉ bản thân mình mê mờ mà
hầu hết những người khác cũng vẫn còn đang vô minh như vậy.
Đức
Phật, vô cùng thực tế và thiện xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp
theo các cấp độ vi tế khác nhau nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm
nhập thực tại. Ngài bắt đầu với những khai thị về thân - cấp độ
thô lậu nhất - bởi thân là trải nghiệm mà tất cả chúng ta đều dễ dàng
nhận thấy. Trong lúc sống với thân này, phần lớn thời gian chúng ta
không ý thức được về nó, chúng ta hoàn toàn tách biệt với thân. Vì vậy,
bước đầu tiên là quay về với hiện tại của thân, chẳng hạn, khi ngồi ta
biết mình đang ngồi; khi đứng ta biết mình đang đứng, khi đi ta biết
mình đang đi; khi nằm ta biết mình nằm. Chỉ đơn giản như vậy. Chúng ta
có thể so sánh việc này như là thức giấc. Nhưng tâm chúng ta chỉ có thể
tỉnh thức trong chốc lát rồi lại tiếp tục mê mờ. Thật lạ lùng là tâm
luôn muốn ngủ! Do vậy, chúng ta cần nhắc nhở mình trở về với hiện tại
bởi đó là khoảng thời gian duy nhất ta thực sự sở hữu. Tất cả những thứ
khác đều chỉ là sự phóng chiếu của tâm.
Cách khác để rộng mở tâm hồn trong khoảnh khắc hiện tại là dùng hơi thở. Hơi thở là yều tố liên hệ giữa thân và tâm. Sân hận, sợ hãi, an lạc hay bất kỳ cảm xúc nào
mà ta có đều được thể hiện qua hơi thở.Theo truyền thống Phật giáo, hơi
thở được ví như con tuấn mã trong khi tâm là người kỵ sĩ. Dù cho thông
thường, hít thở là một quá tình tự động, chúng ta hoàn toàn có thể tỉnh
thức trong tiến trình này. Và nếu ta có thể thực sự kết nối với hơi thở,
hòa nhập vào trong hơi thở, không vọng niệm gì về việc hòa nhập hay kết
nối này thì như vậy nghĩa là ta đang thực sự ở trong hiện tại. Bởi hơi
thở chính là hiện tại, nó ở ngay đây, trong chính khoảnh khắc này. Khi
bạn bị căng thẳng và stress, cách giải tỏa vô cùng thiện xảo là điều
phục tâm nương theo hơi thở vào ra. Điều này đặc biệt hữu ích khi ta
phải xếp hàng chờ đợi hay đang lái xe. Khi phải dừng trước đèn đỏ, ta có
thể nóng ruột nhưng nếu suy ngẫm rằng "đây chính là cơ hội tuyệt vời để
thực hành", sau đó, ta xoay sự chú ý của mình về hơi thở, tình huống sẽ
thay đổi ngay lập tức. Chúng ta sẽ hoan hỷ với viêc chờ đợi này!
Sự thực hành tu tập còn có một cấp độ khác đó là tỉnh giác nhận thức tâm của chính mình.
Đây là cấp độ quan trọng nhất đồng thời khó khăn nhất để thực chứng bởi
nó cũng là cấp độ vi tế nhất. Tất cả những Đại thành tựu giả yogi trong
quá khứ đều cho rằng cốt tủy của việc thực hành là luôn quán sát tâm
tại mọi thời điểm. Đây dĩ nhiên là căn bản của việc thực hành tu tập về
tâm. Nhưng thế nào là giữ tâm tỉnh giác, sáng suốt? Ví dụ kinh điển là
hình ảnh một người ngồi bên bờ sông quan sát dòng nước đang chảy trôi.
Ví dụ khác nói về một người chăn cừu khéo léo, thiện xảo chăn dắt bầy
cừu của mình.
Thiền
định cũng bao gồm cách thức cứng nhắc và cách thức thiện xảo. Theo cách
cứng nhắc, hành giả thiền định bằng cách cột chặt tâm mình đề giữ cho
nó tỉnh thức, khiến tâm không có lối thoát và trở nên bí bách, căng
thẳng. Bạn có thể thấy rằng, khi thiền giả quá gắng sức dồn ép tâm, hậu
quả là họ thường bị xáo trộn các nguồn năng lượng bên trong cơ thể -
người Tây Tạng gọi đó là "loong”. Khi đó, hành giả thường trở nên bực
bội, muốn gào thét. Điều chúng ta cần là tâm thật sự thư giãn, tĩnh tại.
Tâm cần trở nên rộng mở, sắc bén và tỉnh giác. Điều đó
hoàn toàn khác với trạng thái hôn trầm (tức tâm mê mờ, ngủ gật) hay vọng
tưởng (tâm lăng xăng, xao động). Nó cũng không có nghĩa là mọi thứ phải
căng thẳng và mọi niệm hiện khởi phải gò ép theo một thứ tự hình thành
nhất định. Một cách vô cùng đơn giản, tâm cần được rộng mở và sáng rõ.
Thực
tai duy nhất mà ta có được chính là những gì đang diễn ra, ngay tại đây
và ngay lúc này. Nếu ta phóng tâm với những mộng tưởng, ký ức, hy vọng
và sợ hãi, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất thực tại này và toàn bộ cuộc sống của
ta chẳng khác gì giấc ngủ của mê mờ triền miên. Chúng ta làm sao có thể
biết mình thực sự là ai khi mà mình không bao giờ ở trong thực tại?
(Drukpa Việt Nam)
No comments:
Post a Comment