ÚT BỈNH MỸ DU 16.6.2008
Xem Video Clip tại:
https://www.youtube.com/watch?v=oNPfyOIt_w4
Út Bỉnh đã đi xe Đò HOÀNG từ Phước Lộc Thọ lên San Jose 2.7.2008. Đi khoảng 6 tiếng, ngồi trên xe êm ru như đang đi trên máy bay vậy. Được phát tiêu chuẩn là một Ổ Bánh Mì Thịt, một cái hộp Xin Xa và một chai nước suối, một tờ báo. Tốn 35 USD cho một chuyến đi, chuyến về đệ tử ĐỊNH (Chủ FastFood To go QUÊ HƯƠNG bao). Đi qua nhiều cánh đồng trống, ít thấy ngả tư đèn xanh đỏ chỉ thấy trang trại mênh mong bát ngát tưới tiêu bằng máy móc hiện đại. Và tại Sanjose Út Bỉnh đã gặp được các bạn bè sau 32 năm xa cách.
XE
ĐÒ HOÀNG Ở CALIFORNIA
Nguyễn Tài Ngọc
Chiếc xe tăng đầu tiên của
quân đội Cộng Sản đâm đổ hàng rào Dinh
Độc Lập của Tổng Thống Nguyễn Văn
Thiệu vào ngày 30-04-1975 đánh dấu sự chấm dứt
của cuộc chiến Nam Bắc, nhưng nó cũng bắt
đầu cuộc phiêu lưu của 135,000 người Việt
tỵ nạn sang Hoa Kỳ. Là quốc gia đã có bao kinh
nghiệm đối phó với vấn đề tỵ nạn
của người Âu Châu sang Mỹ vào Đệ Nhất
Thế Chiến và Đệ Nhị Thế Chiến, Tổng
Thống Gerald Ford đã vạch sẵn chính sách đón nhận
người Việt tỵ nạn: phân tán tất cả mọi
người trên năm mươi tiểu bang trên nước
Mỹ.
Chính sách phân tán này thực hiện
được bốn điểm chính:
1.
Tái
định cư người tỵ nạn một cách
nhanh chóng để họ có thể tự túc dễ dàng sau
này.
2.
Tránh
được một số đông người tỵ nạn
tập trung vào chỉ một thành phố làm tỷ lệ
thất nghiệp của thành phố đó sẽ gia
tăng vì không đủ công việc.
3.
Tìm
người bảo trợ dễ dàng hơn trong việc
hoà đồng người tỵ nạn vào đời sống
nước Mỹ.
4.
Tránh
được một khu đông dân cư nghèo đói mà dân
vùng đó toàn là người đến cùng một quốc
gia.
Thế nhưng mình có câu “Tổng Thống Mỹ tính không bằng dân An Nam Mít tính”. Vì lý do thời tiết và vì
muốn sinh sống nơi đông dân cư, dân Việt Nam từ khắp
mọi nơi dồn về ba tiểu bang Florida, Texas, và nhiều
nhất, California. Năm 1975 số người
Việt tỵ nạn ở California chỉ là 20% tổng số
dân tỵ nạn. Đến năm 1980 con số
đó nhẩy vọt lên 35%, và cho đến năm nay, khi
những gia đình làng xóm của tôi ở chợ Bàn Cờ
là ông Phó Bạc, bà Tư Rỗ, ông Trọng bán tem, chú Tám Tôm
Càng, chị Bá bán bar dọn về Santa Ana ở đông với
nhau cho vui thì tỷ lệ người Việt Nam ở
California bây giờ đã tăng lên một triệu phần
trăm. Buổi
chiều nấu cơm có thiếu trứng gà thì
qua nhà kế bên gõ cửa chị Ba làm nail mượn đỡ
hai trứng , khỏi cần ra siêu thị mua.
Người Việt Nam ở California có
rất nhiều sự việc tiện ích mà người Việt
ở các tiểu bang khác không có: thức ăn Việt Nam
(không thua Sàigòn, gì cũng có từ cốm dẹp đến
bánh tầm bì), chương trình ca nhạc Việt Nam (có thể
đi xem Tuấn Vũ hay Chế Linh mút chỉ), khách sạn
Việt Nam (room service gọi một bát phở thay vì món
steak chán ngấy, cable TV xem cải lương thay vì CNN),
vũ trường, người dậy lái xe bằng tiếng
Việt Nam (dành riêng cho mấy người ở Mỹ hai
mươi năm nói tiếng Anh vẫn không được
sõi), đưa đón phi trường, tuyên thệ công dân
tài xế là người Việt Nam, và cuối cùng điểm
quan trọng nhất: di chuyển từ thành phố này sang
thành phố khác bằng xe đò do người Việt Nam
làm chủ.
Phương tiện giao thông công cộng
chính yếu nối liền các thành phố ở nước
Mỹ là xe bus, xe lửa, và máy bay. Hầu
như thành phố nào nhỏ đến đâu đi nữa
cũng đều có phi trường nên người Mỹ
đi máy bay như đi taxi . Đi xe bus
hay xe lửa rẻ hơn không là bao nhiêu mà lại tốn nhiều thì giờ
nên số người đi xe bus và xe lửa càng ngày càng ít.
Càng ít người đi mà luật lệ chính phủ ấn
định bắt buộc chạy những lộ trình
đông người lẫn lộ trình ít người, xe bus và nhất là xe lửa do đó luôn luôn lỗ
lã. Xe lửa ở nước Mỹ do chính phủ làm chủ
nên hàng năm quốc hội phải trích ngân quỹ bao thầu phần thiếu
hụt. Trong khi đó, xe bus Greyhound của
Mỹ sau mấy năm lỗ lã liên tiếp đã phải
bán cho một công ty của Tô-Cách-Lan vào tháng Hai năm 2007.
Xe bus trên nước Mỹ chỉ có
người nghèo đi nên thường xẩy ra trộm
cướp gần khu vực trạm xe
bus. Không biết hành khách ngồi bên cạnh mình gia cảnh
như thế nào nên đi xe bus Mỹ không cảm thấy an toàn. Một trường hợp ghê rợn
xẩy ra trên chuyến xe bus Greyhound ngày 30-07-2008 đi từ Edmonton đến Winnipeg: một
người Trung Hoa ngọai kiều được phép nhập
cảnh vào Canada tên Vincent Li khai với nhà cầm quyền
là trong lúc đi xe bus, trong đầu anh ta nghe tiếng gọi
của Thượng Đế là phải giết tên quỷ
sứ ngồi kế bên cạnh, anh Tim McLean người
Gia Nã Đại, 22 tuổi, làm trong ngành hát xiệc. Vincent
Li rút ra một con dao đâm liên tiếp vào Tim khi Tim đang
say ngủ, cắt đầu Tim, móc mắt, mổ bụng
lấy ruột tim ra, một phần bỏ
vào giỏ giữ lại, một phần đem ra ăn
ngon lành. Tháng 3 năm 2009, thẩm phán của thành phố
Queen, Winnipeg xử Vincent Li không có tội vì lý do...điên! Thay vì đi tù thì Tòa xử giam Vincent Li ở nhà
thương trị bệnh tâm thần.
Số hành khách đi xe
bus trên nước Mỹ do đó tương đối ít.
Làm chủ xe bus trên nước Mỹ như làm chủ một
trạm điện thoại công cộng giữa thời
đại dân chúng dùng cellular phone, ấy thế mà xe đò
Hoàng ở California, thiết lập từ năm 1999, thành công
vẻ vang đến nỗi bây giờ có những hãng khác
nhẩy vào bắt chước.
Nhận thức được nhu cầu
giao thông giữa hai vùng thành phố đông người Việt
Nam cư ngụ nhiều nhất trên nước Mỹ: San
Jose ở Bắc California và Los Angeles, Orange County ở miền
Nam California, anh Hoàng sáng lập ra tuyến xe
đò, trong những năm đầu tiên dùng xe van Mỹ cỡ
lớn. Bây giờ mười năm sau cái xe van nhỏ
đó đã được thay thế bằng xe bus du lịch
khổng lồ 55 chỗ ngồi, có restroom trên xe và thậm
chí có cả WiFi internet! Xe từ miền Nam California khởi
hành từ bãi đậu xe của siêu thị ABC góc
đường Bolsa và Magnolia, chạy đến khu El
Monte, Chinatown đón thêm khách rồi trực chỉ bánh mì
Lee’s Sandwich ở San Jose, Oakland, và cuối cùng ngừng ở
McDonald’s trên đường Van Ness ở San Francisco.
Khi nói đến đi xe đò, người
Việt Nam nào cũng hình dung được chỗ khởi
điểm: bao nhiêu là xe đò
đậu song song với chữ in sơn to tên thành phố
đi và đến, người ngợm tấp nập, kèn
xe inh ỏi, hành lý đầy mui, tiếng người
lơ xe gọi khách ơi ới, dân chúng tranh nhau mua vé, hành
khách lũ lượt tay xách vai đeo, giai nhân xinh đẹp
như Thẩm Thúy Hằng. Xin lỗi tôi viết nhầm. Giai nhân xinh đẹp chỉ thấy ở trạm
Hàng Không Việt Nam chứ đời nào mà gặp ở Xa
Cảng Miền Tây hay miền Đông. Một người
mang những hình ảnh đó đến trạm xe đò
Hoàng dừng ở chợ ABC trên đường Bolsa với
hy vọng xem trạm xe bên Mỹ giống như ở
SàiGòn thì sẽ thất vọng lớn: thứ nhất là mỗi
ngày chỉ có một chuyến, và thứ hai nếu không chủ
tâm để ý thì sẽ chẳng biết đó là xe đò
đợi khách vì bãi đậu xe của siêu thị bên Mỹ
rộng mênh mông bát ngát. Dù cái xe bus có to lớn
đến đâu cũng tiệp vào với các xe khác trong
bãi đậu, trừ khi mình đến gần thấy chữ
Xe Đò Hoàng sơn bên hông xe.
Hành khách đi xe đò Hoàng đến từ
đủ loại tầng lớp: người Việt du
khách ở nơi khác đến California, người ở
Santa Ana nhưng có việc làm ở San Jose, mẹ đi
thăm con học ở UC Irvine hay Standford, bố mẹ
đi thăm con, cụ già tám mươi đi thăm bồ
nhí sáu mươi lăm mới quen nhau chỉ được
vài ba tháng. Không một ai phải cần bỏ tiền mua
vé trước (họ thu tiền trên xe), nhưng nếu gọi
đặt chỗ trước thì ưu tiên hơn người không giữ chỗ,
cho dù người ấy là một cô chuyển bụng sắp
sửa sinh trong vòng mấy tiếng đồng hồ. Từ
Westminster đi San Jose giờ khởi hành là 9:45 sáng, đến
San Jose lúc 4:15 chiều. Quãng thời gian đi khá dài, hành
khách nếu không ăn e rằng sẽ có người xanh
máu mặt viếng thăm nhị tỳ bất đắc
kỳ tử, phiền lòng tài xế phải ghé vào Tô Bia
không dự định trễ giờ cả chuyến xe nên
trước khi xe lăn bánh, chú tài xế đến phân
phát cho từng người thực phẩm hiến tặng
từ Hội Hồng Thập Tự Liên Hiệp Quốc: một
ổ bánh mì thịt, một chai nước uống và một
đĩa thạch nhỏ. Xe đò có thể thua máy bay vì thời
gian đi quá lâu, thế nhưng so sánh với máy bay nội
địa ngồi máy bay lâu méo cả mặt sưng cả
mông, hành khách không được cho ăn, muốn ăn phải
bỏ tiền túi ra mua thì xe đò Hoàng bứt xa máy bay nội
địa Mỹ việc cho không bánh mì thịt nguội
này.
Những ai không thích xem DVD nhạc Việt
Nam thì chớ nên đi xe Hoàng vì khi xe vừa mới khởi
hành là màn ảnh TV bắt đầu chiếu Thúy Nga Paris
liên tục từ số 1 đến số 150 cho tới
khi xe đến San Jose. Tôi
để ý vợ tôi ở nhà xem Paris By
Night một mình thì khung cảnh yên lặng, nhưng một
khi có mấy chị em họp nhau lại xem cùng một lúc
thì khung cảnh náo nhiệt hẳn lên với lời bàn tán
ra vào. Cả cái xe bus là một rạp hát
di động với khán giả hành khách rất là đắc
ý bình phẩm cho nhau nghe lời bàn Đông Châu Liệt Quốc.
Tất cả người trên xe đều
là chuyên gia ba mươi lăm năm kinh nghiệm biết
ngay tên tuổi ca sĩ và tên bản nhạc, từ bài “Cô Thắm
Về Làng” đến bài “Máu Nhuộm trước Sân Chùa”,
hay “Quần Ai Treo Trước Ngõ”:
-Cái cô Diễm Liên này
hát thật là điêu luyện...
-Tui thấy một bài
nhạc mà cho hai ca sĩ thế hệ cũ và thế hệ
mới hát chung quá hay...
- Cô này ngày xưa ngực
nhỏ sao bây giờ bự quá vậy trời?...
Tôi biết một cô Việt Nam có một
anh bồ người Mỹ, rủ anh ta đi chơi
Tijuana, Mexico bằng xe bus từ Los Angeles
do người Việt Nam tổ chức. Trên chuyến xe chỉ
có một mình anh ta là Mỹ Trắng, lên xe phát khúc bánh mì Việt
Nam anh ta còn ăn được thế nhưng ba tiếng
đồng hồ ngồi nghe Paris By Night, đã mấy lần
anh ta định mở cửa sổ nhẩy ra ngoài tự
tử vì vừa phải nghe lời bàn tán của hành khách, vừa
phải nghe cái tiếng nhạc rên rỉ Việt Nam không
thua gì người mình lắng nghe nhạc Ấn Độ
cà răng căng tai làm anh ta chỉ muốn kết liễu
cuộc đời thay vì để lỗ tai bị tra tấn.
Sau chuyến du lịch Mexico ghê rợn còn hơn chuyến tầu
hoả Thống Nhất từ SàiGòn đi Hà Nội, mối
tình ấy những tưởng đã phải un point final nhưng nhờ cả
hai đi therapy mà cuộc tình được cứu vãn.
Nhiều người vì thấy giá tiền quá rẻ,
du lịch bằng xe bus do người Tầu tổ chức
đi San Francisco, Yosemite..., khi ngồi trên xe bus mới khám
phá ra một sự thật chết người mà những
người bán tour cho mình không đề cập đến: tài xế loan báo là toilette trên xe bus
không được dùng vì họ tiết kiệm tiền
lau chùi. Người nào cần làm công việc vệ sinh thì
xin học cấp tốc môn yoga, vận hai trăm thành công
lực án binh bất động chờ xe
bus ngừng ở trạm nghỉ McDonald’s kế tiếp. Nhân viên ở McDonald’s phụ trách việc lau chùi
restroom được trả lương tối thiểu
$7.50 một giờ hôm đó bỗng nhiên khám phá ra phải
lau restroom sau khi hơn 50 người dùng. Có chửi thầm
trong bụng đến bao nhiêu cũng không biết là cái dịch
vụ restroom McDonald’s đó thuộc vào một phần của
tour bus người Tầu mà McDonald’s không bao giờ hay biết.
Xe đò Hoàng thì ngược lại, toilette trên xe khách được dùng thoải mái không hạn
chế. Khách được tự do sử dụng nên nhiều
lúc cũng không dùng toilette vì chương trình nhạc quá hay,
nín thở ngồi xem quên luôn việc phế thải.
Mấy năm trước em vợ
tôi ở San Jose xuống chơi. Nó đã đặt chỗ xe đò cho chuyến về nhưng buổi
sáng hôm về nó còn cố kỳ kèo nán lại đi ăn
điểm tâm với bạn bè nên trễ chuyến khởi
hành từ Chinatown Los Angeles. Nó ở
nhà tôi là phía Bắc Los Angeles, xe chạy từ
Chinatown L.A. về San Jose phải qua hướng nhà tôi. Từ Chinatown đến nhà tôi mất khoảng 35
phút. Gia đình ai cũng rầu rĩ
cho nó mất một ngày đi làm vì phải lấy chuyến
xe hôm sau thì nó nghĩ ra ý gọi số điện thoại
của xe đò Hoàng xin số điện thoại tay của
anh tài xế. Có được số phone, nó
gọi cho anh tài xế, hỏi anh ta đang lái ở
đâu. Anh tài xế đồng
ý với nó một chỗ hẹn trên freeway 5 rồi tôi hối
hả chở nó đi, bắt kịp xe đò vừa mới
đến đúng chỗ hẹn trên freeway, ngừng lại
giữa đường để cho nó leo lên. Phục vụ
khách hàng như thế thì bảo đảm ít có công ty nào
sánh bằng!
Ngoài dịch vụ chở khách hàng, xe đò còn nhận chuyên chở hàng hoá lặt
vặt. Ba năm trước, cậu con trai
cháu vợ tôi ở Paris từ San Jose về nhà chúng tôi để
hai ngày sau bay về Pháp từ Los Angeles. Nó
bỏ quên cái laptop. Em trai vợ tôi ở San Jose đem
cái laptop ra xe đò Hoàng. Anh ta cho tôi biết
giờ xe đến ở Bolsa để
tôi ra lấy. Tôi đến thì không thấy xe
ở đâu hết. Ngồi trong xe đợi
mười phút thì điện thoại cầm tay reo:
-Dạ tui muốn nói
chuyện với anh Ngọc.
-Tôi là Ngọc
đây anh.
-Tui là xe
đò Hoàng anh ơi. Xe đến rồi, anh có cái laptop, nhờ
anh ra lấy.
-Đến
rồi sao anh? Xe đậu ở đâu?
-Ở
trước chợ ABC.
-Anh nói chợ
ABC nào, góc Bolsa & Magnolia?
-Đúng
rồi.
-Tôi
đang đậu xe chờ trước chợ ABC ngay
đây mà tôi đâu có thấy xe đò nào đâu?
-Anh đậu
ở đâu? Ngay chỗ cây xăng đó anh.
-Thì tôi
đang đậu ngay chỗ cây xăng...
Vừa nói tôi vừa bước ra xe
ngó dáo dác. Cái xe đò to chình ình không thể nào không thấy
mà tôi không thấy bóng dáng nó ở đâu. Đang thắc mắc
ghê gớm thì tôi thấy cách tôi chỉ chừng hai
mươi thước, quay
lưng lại phía tôi là một anh Việt Nam trẻ, tay cầm
cell phone gác tai, dưới chân là vài món đồ đạc.
Tôi tiến đến, giới thiệu tôi là Ngọc. Anh ta
đưa cho tôi cái laptop, nói là xe hôm nay đến sớm,
anh ta đứng ở đây chờ mọi người
đến nhận hết đồ xong thì anh ta về. Gửi
một cái laptop bằng Federal Express hay UPS overnight, giá chắc
có lẽ vào khoảng $40, $50 mà mình còn phải bỏ vào thùng
đóng cẩn thận, viết hoá đơn tên địa
chỉ người nhận gửi rõ ràng. Ấy vậy mà
món hàng chỉ đến ngày hôm sau. Ở đây gửi buổi
sáng buổi chiều đã nhận được, không cần
giấy tờ phiền phức mà chỉ tốn có năm
dollars. Only in America!
Không phải chỉ riêng người
tỵ nạn Việt Nam, mà để đối phó với
tất cả các người tỵ nạn khác như Do
Thái, Ba Lan, Lithuania, Ý Đại Lợi... khi gia nhập vào
nước Mỹ, chính phủ Mỹ luôn áp dụng chính
sách trải đều mọi người trên khắp toàn
quốc. Người Việt tỵ nạn đã chứng
minh cho thấy chính sách này thất bại một phần
nào vì đa số cuối cùng cũng tập trung vào một
chỗ họ thích sinh sống
như California. Hèn gì mà bất
kỳ Tổng Thống Mỹ nào, Dân Chủ hay Cộng Hoà,
sau nhiệm kỳ bốn năm là mái tóc nâu trở nên bạc
trắng, già đi hơn hai mươi tuổi vì nhức
đầu với chuyện tưởng đã được
giải quyết, phân tán người Việt Nam tỵ nạn
trên nước Mỹ, nhưng không ngờ Xe đò Hoàng
đơn thân độc mã mỗi ngày một chuyến kéo
hai thành phố đông dân cư Việt Nam lại càng gần
với nhau hơn nữa.
Nguyễn Tài Ngọc
NORTH / SOUTH
CAROLINA / SAVANNAH
TRIP, MARCH 2007
Thành phố Minneapolis
nhìn từ trên máy bay xuống vào cuối tháng mùa Đông trông
thật tiêu điều và xơ xác. Khác với tháng Giêng hay
tháng Hai cảnh
trí trông thật hữu tình khi tất cả bao trùm bằng
một lớp tuyết dầy cộm trắng xoá, cả
thành phố bây giờ là một mầu vàng/nâu nhạt của
cỏ đổi màu và của màu nước bùn khắp mọi
nơi vì tuyết đã tan thành nước quyện với
đất. Minneapolis là một trong những thành phố lạnh
nhất ở nước Mỹ, và do đó cũng như
bao thành phố ở vùng Đông Bắc, dân chúng di cư về
các tiểu bang vùng Tây Nam nên dân số ngày càng thưa dần,
từ hơn nửa triệu vào năm 1950 nhưng đến
năm 2005 chỉ còn lại 350,000 người.
Tôi đang ngồi trên chiếc
máy bay DC-9 trên chặng đường thứ hai từ Los Angeles, California
đến Charlotte, North Carolina. Minneapolis, Minnesota là trạm
chuyển tiếp. Hơn một năm trước
đây, bà Connie người Mỹ xếp của vợ tôi theo
chồng về hưu ở Asheville,
North Carolina. Hai vợ chồng
trước ở cách nhà tôi chỉ có nửa giờ lái xe, ông chồng sinh trưởng ở Los Angeles nhưng khi
về hưu quyết định dọn về tiểu
bang này. Từ lúc dọn về cho đến nay, Connie luôn mời
chúng tôi đến thăm căn nhà mới. Nhân tiện vợ
tôi cũng có bạn ở Columbia, South Carolina, và tôi cũng
muốn đi thăm hai thành phố Charleston và Savannah,
nơi tôi có đọc qua mà
không bao giờ biết tới, chúng tôi gọi báo cho cả
hai nơi là sẽ làm một chuyến “kinh du” thăm hai
người vào tuần thứ ba của tháng Ba.
Máy bay bay không đầy hai giờ rưỡi
thì hạ cánh ở Charlotte. Không như những máy bay khác với
hai ống phản lực dưới hai cánh, ống phản
lực của chiếc DC-9 nằm hai bên đuôi phi cơ,
tôi lại bất hạnh ngồi nhìn ngay ra nó bên ngoài cửa
sổ. Khi máy
bay hạ cánh thì tai tôi không còn nghe được những
gì vợ tôi nói (lợi hay bất lợi?) , đầu thì
nhức còn hơn khi chẳng may bước vào phòng ngủ
trong lúc vợ tôi xem phim bộ Đại Hàn với cái giọng
Nam pha Hoa thuyết minh “monotone” chói tai còn hơn đọc
kinh cầu nguyện, thật là khó chịu. Cũng may là từ
ngày Boeing mua McDonnal Douglas vào năm 1997, DC-9 đã ngừng sản
xuất để nhường chỗ cho chiếc máy bay
cùng loại bay đường xa tầm trung bình được
lắm quốc gia trên thế giới ưa chuộng và
đặt mua nhiều nhất thế giới với tổng
số bán tính đến giờ hơn 6000 chiếc: Boeing
737.
Sau khi trả lời “Không” hơn 35 lần cho những
câu hỏi của anh chàng làm cho hãng mướn xe Avis: “Anh có muốn lái xe xì-po hai cửa chỉ
tốn thêm có năm đồng một ngày? “Anh có muốn
mướn xe to chình ình chỉ tốn
thêm tám đồng một ngày?” “Anh ở tiểu bang khác khó
tìm đường ở đây, tôi nghĩ anh nên cần
mướn GPS?” , “Anh lái xe đường
xa thế nào cũng mọc trĩ
nên mua thuốc Preparation H cho chắc?”, tôi leo lên chiếc xe
giá cả đã ấn định trước trên Internet, mở
cái GPS di động bằng bàn tay mang theo từ California, bấm
vào địa chỉ của Connie rồi theo GPS trực chỉ.
Không như dân ở những thành phố lớn
phần đông cần học lại phép lịch sự lớp
vỡ lòng, dân ở các tiểu bang miền Đông Nam nước
Mỹ rất nổi tiếng về niềm nở, sốt
sắng, kính cẩn và lịch sự với người
không quen biết. Tôi thấy ngay cái Southern
hospitality này khi ghé vào tiệm Chick-fil-A ăn tối sơ
qua trước khi đến nhà khách. Chick-fil-A là một
tiệm fast-food chỉ có ở các tiểu bang phương
Đông, tương tự như McDonald’s nhưng chỉ
bán thịt gà. Bà bán hàng người Mỹ trắng miệng
lúc nào cũng nở nụ cười, kiên nhẫn đổi
giá tiền mấy lần vì tôi do dự không biết ăn loại gà nào ngon: gà thiến, gà nuốt
dây thun, hay gà bị cúm. Ăn xong, ra xe
để chuẩn bị lái tiếp thì tôi để ý bánh
xe sau bị xì. Nhìn tôi lấy con đội đội xe
tháo bánh xì để thay thế bằng bánh “sơ-cua”, vợ
tôi âu yếm vuốt vai tôi và nói rằng không có chồng
đi theo dùng sức voi để thay bánh xe thì chắc nàng
phải chết. Xa chỗ mướn xe
hơn 90 cây số, hãng mướn xe chắc không thể
nào giúp được cho đến sáng mai. Tôi nhắc với
nàng nên ghi lại ngày giờ tối hôm nay nàng đã phát ngôn
ra một câu nghe thật là chí lý để khi ở nhà nhớ
đừng bao giờ làm biếng nấu cơm, cho tôi ăn mì
gói.
Một người đàn ông trạc 40 với
giọng miền Nam
thật khó nghe đến lăn cái bánh xe xì vài vòng chăm chú tìm ra dấu
đinh, chào và hỏi tôi có cần gì giúp đỡ. Tôi thật ngạc nhiên. Đúng
là Southern hospitality quả không sai. Dân xứ
này thật là tốt bụng. Ở Los Angeles trời
chạng vạng tối như thế này mà có người
đến gần giúp đỡ khi lâm nạn thì một là
mình đang ngủ mơ, hai là người đó sẽ có
con dao hay cây súng thủ sẵn trong người với dụng
ý sẽ cho mình ngủ mơ thật sự. Tôi tưởng
North Carolina nằm gần về
phía Bắc nên
giọng họ không nặng như những người miền
Nam nhưng anh này nói
giọng Nam
đặc sệt làm tôi phải chú ý nghe. Chỉ cùng một
tiếng Anh mà tùy theo vùng hay người
nước khác nhiều lúc không thể hiểu nhau
được. Nhờ việc làm mà tôi tiếp
xúc được với những người nói tiếng
Anh ở hai thái cực hoàn toàn trái ngược. Chúng tôi có một người thợ hàn người
Louisiana, tiểu bang miền Nam nước Mỹ, nói giọng Nam nặng
vô cùng. Hãng của tôi có văn phòng ở
Thụy Sĩ và Đức, có một cô ở Đức
nói tiếng Anh giọng Ăng-Lê. Tôi thường phải
nói chuyện điện thoại với cô ta, ban đầu
khó nghe nhưng dần rồi cũng quen. Có một lần
cô ta sang Mỹ, sau khi nói chuyện với anh chàng người
Louisiana, cô
ta nói với tôi là cô ấy hoàn toàn không hiểu anh ta nói gì. Ấy là cô ta nói tiếng Anh 100% trôi chẩy, huống
gì là mình. Lần khác một công ty ở nước Ấn
Độ gửi hai người sang hãng tôi để
được huấn luyện cách sử dụng máy hàn
hãng họ đã đặt mua. Anh chàng Louisiana huấn luyện
họ trong một tuần. Người Ấn Độ
nói tiếng Anh mình nghe cũng đã nhức lỗ tai, hai
anh chàng này nghe anh chàng Louisiana
còn ..nhức lỗ tai hơn, không hiểu
gì nhưng vì lịch sự nên im lặng không nói. Ngay sau khi
họ trở về Ấn Độ, hãng của họ
email cho chúng tôi là hai nhân viên họ gửi sang để huấn
luyện không hiểu gì hết, và yêu cầu chúng tôi gửi
người khác với giọng Mỹ bình thường
sang Ấn Độ để huấn luyện lại!
8 giờ 45 tối xe tôi vừa
qua downtown Asheville.
Theo cái GPS tôi rời freeway vào con đường nhỏ
hướng về Weaverville, nơi Connie ở. Trước
khi tôi đến, Connie hỏi tôi có biết đường
đi không, tôi nói với Connie là tôi có GPS di động nên
đừng lo. Xe Connie có GPS, nhưng mua từ năm
2000 ở California, hình như còn dùng CD nên quá lỗi
thời. Đến đây thì chỉ dùng
được ở khu đường chính, vào đến
khu nhà ở thì mất phương hướng. Connie
lo lắng tôi đi lạc nên đã email cho tôi cả nửa
trang ghi lại lối đến nhà. Tôi chỉ đọc sơ qua
nhưng không để ý, cứ theo giọng nói của cái
GPS phát thanh rõ ràng cả tên đường “Chuẩn bị
quẹo phải vào đường Mustang Drive trong 300 feet”,
và khi đến gần nó nhắc lại một lần nữa : “Quẹo
phải vào đường Mustang Drive” cho nên mặc dù trời
tối đen như mực và mặc dù phải chạy ngoằn
ngoèo quẹo trái quẹo phải, 9 giờ tối tôi lái xe
vào driveway nhà Connie. Vì đã
được chúng tôi báo giờ sẽ đến, Connie và
chồng là Don đã ngồi sẵn ở trước hành lang đợi. Hai người
vồn vã bước ra driveway đón chúng tôi. Connie với niềm
hớn hở hiện rõ trên mặt ôm chầm lấy Loan và
tôi cám ơn rối rít đã bỏ thì giờ đến
thăm. Connie nói ngoại trừ gia đình hai đứa
con trai của Connie, chúng tôi là bạn bè đầu tiên đến
đây từ khi họ dọn đến Asheville từ tháng 12 năm
2005. Hai vợ chồng về
hưu ở với hai con chó nhỏ Jack Russell Terriers xinh xắn.
Sau khi cất dọn hành lý, xem một vòng nội
thất, chúng tôi xuống basement nói chuyện gẫu đến
gần nửa đêm rồi đi ngủ.
Mở mắt dậy nhìn đồng hồ, bẩy
giờ sáng. Bây giờ chỉ là bốn giờ sáng California nhưng
tôi thường dậy vào khoảng năm giờ nên trong
người không thấy mệt mỏi. Phòng
ngủ của tôi ở trên lầu với hai cửa sổ
nhìn ra trước và bên hông, hướng nào cũng có cảnh
tuyệt đẹp. Nhà Connie ở trong dẫy
núi Blue Ridge Mountain, nổi tiếng ở
phương Đông nước Mỹ vì nhìn xa có một màu
xanh dương đặc biệt. Tối
hôm qua cái GPS cho tôi biết cao độ ở đây là 2600
feet, gần bằng 800 thước. Nhìn ra đằng
trước là cái driveway dài hơn Vạn Lý Trường
Thành (tôi nghĩ ở California
tiền xây cái driveway này thôi có lẽ đắt bằng cái
nhà ở đây!), hai nhà láng giềng đồ sộ hai bên
và một rừng cây ở phía trước. Khu Connie ở trong góc kẹt cul-de-sac, và là điểm
cao nhất ở vùng núi này nên thật là lý tưởng.
Bên tay phải là cảnh nhìn như những
hình chụp trong puzzle cắt ra trăm mảnh để
ghép lại: chính giữa lác đác vài nhà với mái ngói tam
giác cao nhọn như nhà thờ, hai bên là hai rừng cây với
một con đường tráng nhựa ngoằn ngoèo như
con rắn nằm bên tay phải. Xa xa ở cuối bức
hình là Club house của sân golf và một dải cỏ màu xanh.
Nhà Connie nằm trong Reems Creek Golf Club, một sân đánh golf
bán công tiền hội viên chỉ có $5000, và tiền mỗi
lần đánh cho người ngoài khi hội viên dẫn vào
chỉ có $16! So với California
thì quá rẻ: Gần nhà tôi cũng có sân golf bán công, nhưng
tiền hội viên là $40,000, và mỗi lần khi người
ngoài vào đánh, hội viên phải trả $100. Căn nhà này rộng 4,700 square feet
(430 thước vuông, tính luôn cả hầm basement mà Don đã biến thành một phòng khách tuyệt
đẹp và thật là rộng), nằm trên thửa đất
gần một mẫu, hai người mua với giá $550,000.
Căn nhà tương tự ở California phải vào khoảng
$1,700,000. Tôi đã nghĩ là sẽ không bao giờ rời
California và có lẽ sẽ về hưu luôn ở căn nhà
tôi sống hiện thời cho đến chết, nhưng
sự khác biệt về giá cả và cảnh trí thơ mộng
trên núi ở đây làm tôi hơi thay đổi ý kiến một
tí. Don nói với
tôi là ở đây thấy rõ bốn mùa thay đổi. Mùa Xuân tuyệt đẹp khi cây cối ra hoa đủ
loại màu sắc. Vùng núi này nổi tiếng
về hoa màu sặc sỡ, rất tiếc là tôi đến
sớm một tháng nên chỉ thấy cành cây trơ trọi.
Mùa hè tuy rằng tất cả miền Nam
và Đông Bắc nóng oi bức mồ hôi nhễ nhại
như Việt Nam vì ẩm
ướt, chỗ này lại không bị oi bức và vì ở
trên cao, khí hậu dễ chịu như California: ban ngày có nóng đến
đâu đi nữa nhưng ban đêm cũng rút lạnh.
Mùa Thu đẹp như mùa Xuân khi cây lá đổi màu, và mùa Đông
thì không lạnh lắm, thỉnh thoảng tuyết rơi dầy chỉ một hay hai inch (3 phân) là cùng. Tóm lại, nói về thời tiết, đây là
thiên đường để sống.
Connie là người Mỹ rất tỉ mỉ
về cách ăn mặc. Trước khi
chúng tôi đi, Connie đã dặn mang theo
một bộ quần Tây khi đi ăn tối. Sáng nay
Connie đã dặn chúng tôi cứ mặc quần jean thoải
mái khi hai vợ chồng chở chúng tôi đi xem phong cảnh,
chiều về nhà mới phải diện quần áo khác
để đi ăn nhà hàng. Sau khi Don
lái theo tôi đến văn phòng mướn
xe Avis ở downtown để tôi đổi xe khác vì bánh xe hư,
chúng tôi đi xem thắng cảnh ở Asheville.
Lái xe vòng vòng sân đánh golf xem nhà cửa,
tôi không thấy đến một người da đen hay
Á Đông. Thấy vợ chồng tôi với vợ chồng
Connie, người Mỹ trắng ở đây có lẽ
tưởng lầm chúng tôi là dân Trung Hoa vào thập niên 1800
còn sót lại ở California đến đây .…xây đường
rầy xe lửa. Đời sống ở
đây quá thanh bình. Trên con đường núi đến
Blue Ridge Parkway,
tôi thấy thỉnh thoảng vẫn còn sót lại những
barn, (nhà dùng để giữ thóc lúa và súc vật), những
log cabin (nhà
mà tường xây bằng thân cây chồng lên nhau), và bao nhiêu
là nhà đất cỏ rộng mênh mông với trâu bò.
Dừng xe lại để chụp hình ở
Blue Ridge Parkway, con đường dài 470 miles (760 km) nối
liền đến Smoky Mountain nổi tiếng về màu sắc
cây cối, tôi lại chứng kiến thêm kinh ngiệm của
Southern hospitality: một anh đang lái xe đạp dừng
vào chỗ chúng tôi và nói để anh ta chụp hình cho thấy
cả bốn người. Tôi xin anh ta chụp chung với
tôi một tấm, và sau khi rất vui vẻ nán lại thêm
vài phút nữa nói
chuyện xã giao, anh ta lại đạp xe đi.
Tôi đã tìm hiểu và biết
được dân số của Asheville chỉ có 70,000 người. So sánh với thành phố Simi
Valley tôi đang ở là 120,000 người mà tôi đã có cảm
tưởng như ở quê, tôi đã nghĩ Asheville là
…đồng ruộng. Thế nhưng khi đến downtown Asheville thì tôi hoàn
toàn kinh ngạc: đầy dẫy những nhà lầu chọc
trời, tiệm ăn khắp nơi với
khách ngồi ngoài đường trông thật vui và tấp
nập. Simi
Valley của tôi không có
phi trường. Ở đây có cả
phi trường riêng, chứng tỏ là du khách hay business ở
Asheville khá
nhộn nhịp. Khoảng
một giờ trưa Don và Connie chở
chúng tôi đến lâu đài nhỏ Biltmore estate, một ngạc
nhiên trong chuyến đi này mà tôi không nghĩ đến. Khi
nói đến lâu đài, người Mỹ nào đã có dịp
sang Paris xem Chateau de Versailles, Louvre,
Fontainbleau… thì nếu đi xem Hearst
Castle ở California của Mỹ thì sẽ
thấy rất thất vọng vì nó nhỏ bằng
..lỗ mũi. Chính vì thế mà khi nghe về
Biltmore estate, tôi hoàn toàn không hào hứng mà chỉ nghĩ mục
đích chính yếu của chuyến đi là thăm vợ
chồng Connie. Đứng trước Biltmore estate
để chụp hình, cho dù là căn nhà tư nhân lớn nhất
ở nước Mỹ với 250 phòng, 43 phòng tắm, 65 lò
sưởi, diện tích bên trong là bốn mẫu (16200
thước vuông), tôi vẫn không có ấn tượng mấy
vì so với Louvre hay Versailles,
bên ngoài của Biltmore estate quá nhỏ. Thế nhưng khi mua
vé vào xem bên trong thì cả là một sự ngạc nhiên lớn
lao. Không có một
bảo tàng viện, di tích lịch sử, lâu đài nào mà tôi
đã xem còn duy trì bàn ghế, đèn đuốc, giấy dán
tường -wallpaper-, đồng hồ, vật
dụng trưng bày trong nhà sang trọng và tráng lệ bằng
căn nhà này. Tuy rằng Biltmore estate hoàn thành vào năm 1895,
thế nhưng phòng nào cũng như phòng ấy vẫn còn
giữ nguyên vẹn như nhà mới xây, sẵn sàng cho
người bây giờ ở vẫn được. Khác hẳn
với Mission Santa Barbara xây 80 năm trước Biltmore, du
khách vào xem liên tưởng ngay
đời sống các ông Cha thời ấy tương
đối khắc nghiệt vì bàn ghế, giường ngủ
và dụng cụ thật thô sơ, nhà thờ lạnh lẽo,
tường và sàn nhà siêu vẹo vì kiến trúc bằng đất
sét nện…. Ngược lại, khái niệm đầu tiên
của một người khi vừa bước vào Biltmore
estate là… Beverly Hills:
sang trọng tột độ. Tất cả lò sưởi
làm bằng đá mài quý, trần nhà của những phòng
không phải là phòng ngủ không để thẳng tuột
mà trang trí đủ kiểu khác nhau, từ gỗ quý đến
tranh sơn dầu loại của hoạ sĩ nổi tiếng
Michelangelo, Ý. Nhiều phòng giấy dán tường là da chứ
không phải giấy! Vùng rừng núi ở phía
Tây North Carolina
nổi tiếng về sản xuất gỗ nên hầu
như phòng nào cửa và tường đều làm bằng
gỗ đắt tiền với công trình chạm trổ thật
tỉ mỉ và tinh xảo. Căn phòng thư
viện toàn bằng gỗ quý với chạm trổ thật
công phu. Vừa bước vào tôi cảm thấy nó đẹp
như thư viện trong phim The League of
Extraordinary Gentlemen. George Washington Vanderbilt giầu sụ nhờ
ngành xe lửa nên không ngừng ở bất
cứ một khó khăn nào khi có ý định xây căn nhà
sang trọng nhất thời bấy giờ. Ông ta mua 100,000 mẫu đất.
Khi san bằng phần rừng núi 250 mẫu (căn nhà chỉ
toạ lạc trên bốn mẫu) để xây vườn
hoa và hồ bên ngoài, ông ta mua cả triệu cây từ khắp
nơi đem về trồng, đá mài qúy mua từ Ý Đại Lợi và
Indiana.
Đã thế, ông ta mướn bao nhiêu hoạ sĩ, kiến
trúc sư, nhà trang trí
từ Ý và Tây Ban Nha đến để giúp vào
công trình xây dựng.
Căn nhà này thiết lập khi điện và
điện thoại đã được phát minh nên trong
nhà là hệ thống truyền thông thật tối tân. Hầu như ở
phòng nào người nhà cũng có thể gọi người
làm ở tầng trên cùng (chỗ ngủ) hay dưới hầm
(nhà bếp và nơi giặt quần áo). Xem nhà bếp tôi mới
thật kinh ngạc vì năm 1895 mà họ đã phát minh ra
máy sấy và food processor. Người giầu đúng
là có khác: Trong nhà có cả một hồ bơi tương
đối to, dài khoảng 25 thước. Thời bấy
giờ họ đã có đèn để dưới nước
cho sáng vì hồ xây bên trong nhà. Ngoài ra còn có phòng
tập thể dục và hai hàng bowling.
Don rất tích cực chơi
golf và tennis. Khi còn ở California,
Don đã thường xuyên chơi trong
Club. Connie thỉnh thoảng nói với Loan hỏi tôi mỗi
cuối tuần có muốn gặp Don chơi tennis, nhưng
vì nhà quá xa (nửa tiếng), và tôi cũng có người
để đánh tennis Thứ Bẩy hoặc Chủ Nhật
nên chúng tôi không bao giờ chơi tennis với nhau. Lần
này sang đây không đủ thì giờ đánh golf nhưng
vì sân tennis ngay trên sân golf nên sáng sớm Thứ Bẩy
bẩy giờ Don và tôi đi đánh vài sets. Đánh với
người lạ có một cái thú là không biết “công lực”
họ như thế nào, thành ra cho dù Don lớn hơn tôi 15
tuổi, nhưng biết rằng Don sức khoẻ rất
cường tráng vì chơi golf thường xuyên mỗi tuần
và tạng người Mỹ của Don cũng to xác hơn
tôi, tối hôm trước tôi đã tự mình cấm cung, tự
nhủ “anh chưa đánh thắng thì chưa động
phòng” để giữ gìn thể lực cho trận đấu
ngày hôm sau. May thay là tôi chỉ
lo xa: Don thua đại bại 6-0, 6-1 và hẹn
tái chiến lần tới.
Trở về nhà tắm rửa xong, Connie vừa
nướng sẵn một món ăn sáng phô-mai với trứng
trông thật là lạ. Sau này đi về Loan nói với tôi
là tôi “đặc biệt” lắm vì Connie không nấu ăn,
chỉ chuyên môn đi ăn tiệm. Thế
mà hôm nay Connie xem cookbook nấu một món ăn sáng chưa
bao giờ nấu để đãi khách. Tôi chụp thêm vài tấm
ảnh hai người ở trước nhà và sau
khi nói cám ơn sự đón tiếp nồng hậu của
Don và Connie, chúng tôi rời Asheville đi Columbia thăm Hồng Linh, bạn cũ của
Loan từ Regina Pacis.
Columbia với 123,000 dân là thủ
đô và thành phố đông nhất của tiểu bang South Carolina. Dân số
của cả tiểu bang South Carolina chỉ có 4 triệu 3,
so với thành phố Los Angeles đã là 3 triệu 8 , đủ
cho ta thấy là South Carolina dân số thưa thớt đến
chừng nào. Tôi thấy dân da đen rất nhiều,
nhưng trông họ hiền lành hơn người da đen
ở Los Angeles.
Hồng Linh luôn than phiền ở xứ khỉ-ho-cò-gáy-xơ-xác-xa-xôi-chẳng-có-ai-đến-thăm
Cà Mau này nên khi thấy con sông ..Tiền
Giang bên tay phải, tôi biết ngay là xe chỉ
còn cách nhà Hồng Linh dăm phút nữa.
Với tốc độ lái xe
xuyên thời gian bất chấp phú lít, tôi đến nhà Hồng
Linh đúng một giờ trưa, sớm hơn thời
gian GPS ước lượng mười lăm phút. Đậu
xe lên driveway, tôi thấy anh Long chồng
Linh đang rửa xe. Anh Long là người Huế, sinh vào
thời vua Minh Mạng, phát
âm nhỏ nhẹ mà lại nói
tiếng Huế 100% nên cho dù là tôi có kinh nghiệm hai
mươi năm nói chuyện với người ngoại
quốc ở trong hãng, thỉnh thoảng tôi vẫn phải
nhắc anh ấy lập lại để hiểu cho rõ anh
ấy nói gì. Tôi nghe nói anh ấy có liên hệ
xa gần gì đó với vua Bảo Đại, suýt tí nữa
thì tên đã là Bảo Long. Có họ hàng với vua
như thế nên tính anh thích bảo trì (lau xe),
bảo hành (không cần biết là hành lá hay hành Tây, anh chỉ
muốn cho nó tồn tại cả hai) và bảo vợ. Vào
nhà thì Hồng Linh và chị Muội (ở Irvine California,
cách tôi một giờ rưỡi lái xe,
đến đây trưa hôm qua) đang bận rộn trong
bếp sửa soạn thức ăn trưa: bì cuốn và
bò nướng vĩ. Vì đã đặt phòng sớm cách
đây 35 năm trước, chúng tôi được chủ
nhà dành cho căn phòng ngủ duy nhất ở dưới lầu.
Tôi thích ăn chè nên khi nghe nói Hồng Linh làm sâm bổ lượng,
tôi làm ngay cho một ly to tướng trước khi ăn
bò nướng vĩ. Cái ngạc nhiên thứ
nhất của tôi là Hồng Linh làm sâm bổ lượng
ngon tuyệt, không thua gì sâm bổ lượng Fort Erie Canada
của cô Hai Sen, và sâm bổ lượng San Diego của cô
Tư Huệ. Cái ngạc nhiên thứ hai của tôi là ngoài
tài thi sĩ trào phúng, Hồng Linh cũng là một nhà nội
trợ đảm đang (có dấu đàng hoàng), nấu
bao nhiêu món ăn ngon xuất sắc làm chúng tôi đến từ
ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: sâm bổ lượng,
bò nướng vĩ, súp măng cua, lẩu, phở gà, mì xào
giòn, và bún bò Huế. Ấy là chưa kể những món khác
Hồng Linh đã sửa soạn nhưng chúng tôi phải dập
đầu quỳ gối nói hết nước miếng cản
xin đừng làm vì
ăn không hết: chả giò, bò kho, và chè Thái Lan.
Chủ nhật hôm nay sau khi ăn
phở gà điểm tâm sáng, chúng tôi khởi hành đi xem
hai thành phố Charleston và Savannah. Charleston, dân
số 96000, là thành phố ngay trên bờ biển Đại
Tây Dương, thuộc tiểu bang South Carolina, cách thủ
đô Columbia hai giờ rưỡi lái xe. Charleston là thành phố chứng kiến nhiều dữ kiện
lịch sử về cuộc nội chiến Civil war.
Năm 1861, chống đối với chính sách giải thoát
người nô lệ da đen của Tổng Thống
Abraham Lincoln, bẩy tiểu bang miền Nam, kể cả South
Carolina, sáng lập the Confederate States of America với
mục đích chính yếu tách rời khỏi 23 tiểu
bang Union States muốn giải phóng nô lệ. Ngày 12 tháng 4
năm 1981, quân đội miền Nam Conferate Army tấn công
và chiếm đóng một căn cứ quân sự của
quân đội liên bang ở Fort Summer (nằm trong vịnh
Charleston), mở màn cho trận nội chiến đẫm
máu nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Tổng số binh
sĩ tử thương lên đến 557,000 người,
nhiều nhất trong tất cả các trận chiến
nước Mỹ tham dự. Charleston
cũng là thành phố đầu tiên chứng kiến trận
hải chiến đầu tiên với tiềm thuỷ
đĩnh Mỹ: Tầu ngầm Hunley của quân miền Nam đánh
đắm chiến hạm USS Housatonic của miền Bắc.
Đi bộ dọc theo những con đường
ở khu phố gần bờ biển ở Charleston, du
khách sẽ thấy rất nhiều những căn nhà cổ
duy trì mới nguyên với lối kiến trúc đặc biệt
của miền Nam: nhà thường có hai hay ba tầng; chung
quanh ba bên tường rất nhiều cửa sổ; đằng
trước hay bên hông cả hai tầng đều có hành
lang với quạt trần. Nhiều nhà có phần
hiên nhà hình bán nguyệt với những cột trụ tròn
để chống, phần đông sơn mầu trắng.
Đặc biệt là nhà nào cũng có vườn
không to thì nhỏ, cây và hoa trồng rất tương xứng
với mảnh đất. Khắp phố là xe ngựa
chở du khách đi vòng vòng để ngắm cảnh. Sáng dậy sớm chưa có thì giờ đi bộ
tập thể dục nên bây giờ cả đám vừa
đi bát bộ vừa ngắm những kiến trúc lạ
mắt bên gió biển thật là thích.
Ở Charleston độ
ba tiếng và sau khi ăn trưa, cả bọn lái xe đi Savannah.
Savannah thuộc tiểu bang Georgia về phía Đông, nằm sát
biển, cạnh ranh giới South
Carolina. Savannah 100 năm trước phồn
thịnh nhờ xuất cảng bông gòn, và cũng đã bị
huỷ hoại khá nhiều thời Civil War khi cuối cùng
Tướng William Sherman của quân đội miền Bắc
tiến vào thành phố sau khi đánh bại quân đội
miền Nam. Một cá tính đặc biệt của Savannah là dưới
phố có rất nhiều bùng binh hình vuông với những
cây sồi -oak- với
tàn thật to lớn bao phủ ra cả dẫy nhà kế
bên. Cạnh Savannah River là một dẫy tiệm
shopping gọi là Factor Walk. Cả năm
người chúng tôi không ai thích khu shopping này vì tất cả
tiệm nằm ở tầng dưới của những
building thật cũ kỹ không được duy trì.
Ở chơi đến sáu giờ rưỡi
chiều, chúng tôi trở về Columbia.
Sáng Thứ Hai tôi đã định
đi Atlanta, Georgia,
nhưng chuyến đi thăm Savannah
hôm qua làm tôi hơi thất vọng vì không có gì đặc sắc. Hơn nữa, lái xe từ Columbia đến Atlanta cũng
khá xa, hơn bốn tiếng, nên chúng tôi đổi
chương trình đi Myrtle Beach về phía Đông Bắc của
South Carolina. Khi đọc báo tôi thường
thấy họ đề cập Myrtle Beach là một trong những
bãi biển được thăm viếng nhiều nhất
ở phương Đông. Tôi đã đi nhiều bãi
biển ở California, nơi có hơn 450 bãi biển nằm
trên 1000 miles từ Bắc tới Nam, thành ra tôi cũng muốn
đi xem thử Myrtle Beach như thế nào. Lái xe mất hơn hai tiếng. Đến
nơi thì tôi không được ấn tượng mấy
cho lắm. Thứ nhất là không có núi
như ở California, Hawaii
hay ở Maine
vì núi tạo cho khung cảnh thêm hữu tình. Thứ hai là nhà cửa kiến trúc trông sơ sài và
lác đác cho dù là ngay biển. Nước biển bên
phía Đông Hoa Kỳ nhất định ấm hơn phía
Tây: tôi thử nhúng chân xuống nước. Bây
giờ là cuối Đông thế nhưng nước biển
ở đây còn ấm hơn nước biển ở California vào mùa hè.
Trở về Columbia
ở lại đêm cuối cùng , vợ
chồng Hồng Linh đãi chúng tôi ở một nhà hàng Nhật
mà người Chef đứng xào nấu trước mặt
khách, teppan. Món ăn kiểu này đã được ông
Benihana người Nhật Bản mở nhà hàng tiên phong ở
New York vào thập niên 1960 và dần dần lan truyền khắp
nơi trên đất Mỹ. Ở những thành phố lớn
như New York hay Los Angeles, vì nguyên thủy phát xuất từ
Nhật Bản, người nấu teppan phần đông là người
Nhật, nhưng ở thành phố Columbia khỉ ho cò gáy này
khi tôi hỏi anh chef là người gì, anh ta trả lời
là người Phi Luật Tân. Như thế có lẽ khi
đến ăn tiệm Việt Nam ở
đây, đầu bếp nấu phở chắc là người
…Mễ?
Sáng hôm sau dậy sớm được Hồng
Linh nấu bún bò Huế ăn điểm tâm, tôi mang valise ra
xe để chuẩn bị lái đi phi
trường Charlotte bay về Los Angeles. Kiểm soát xem có bỏ
quên gì trong phòng, tôi không khỏi ..rủa
thầm cô chủ nhà đã treo cây thánh giá và hình Đức Mẹ
thật là to ngay đầu giường làm ba đêm vợ
chồng tôi ngủ không dám động tĩnh. Tôi đã
định để lại vài đồng tiền tip thế
nhưng thay đổi ý kiến vì nhớ lại sáng nào tôi
cũng phải nghe Hồng Linh hát bài Phố Đêm “Phố
đêm, đèn mờ giăng giăng, mầu trắng
như mầu đen, mấy đường tối thui…”
làm phẩm chất của lần đi nghỉ hè này của
tôi bị giảm thiểu cực kỳ trầm trọng.
Từ Columbia đến Charlotte lái xe mất
độ một giờ mười lăm phút. Sau khi chạy
vòng vòng dưới phố xem phong cảnh và chụp vài tấm
hình, tôi đến phi trường trả xe, chia tay với
chị Muội vì chị ấy bay US Air, còn chúng tôi thì bay
Northwest Airlines. Ngồi trên máy bay về lại California, nhớ
lại những tình cảm nồng hậu của Don và
Connie, của anh Long và Hồng Linh, tôi suy nghĩ số của
chúng tôi quá may mắn, đi đến đâu cũng
được có bạn bè đón tiếp thật niềm
nở. Nhớ lại những
khẩu súng cà-nông, những bảng ghi lại những dữ
kiện lịch sử chiến tranh thời nội chiến
Civil War, tôi lại càng cảm thấy may mắn hơn ở
trong một quốc gia sẵn sàng đổ máu để
đem lại công lý cho người thấp cổ bé miệng:
giải phóng người da đen ra khỏi vòng nô lệ và
mang tôi đến sống ở nơi đây. Tôi còn muốn
trở lại vùng Blue Ridge Mountain của Connie để chụp
hình cảnh cây lá đổi mầu, và Columbia của Hồng
Linh để trở lại Charleston tiêu khiển thì giờ
lâu dài hơn một tí. Hy vọng lúc đó tôi sẽ thuyết
phục được cô chủ nhà không hát bài Phố
đêm mỗi sáng sớm, và vợ chồng tôi được
ngủ ở phòng trên lầu không có cây thánh giá hay hình Đức
Mẹ treo ở đầu giường.
Nguyễn Tài Ngọc
With Connie and Don
Billmore Estate –
North Carolina
Charleston – South
Carolina
Long - Hồng
Linh - Muội
CLEARWATER, FLORIDA & HOUSTON, TEXAS
May-2007
Tuần
vừa rồi vợ tôi có dịp dự
hội thảo một tuần cho công việc sở
ở thành phố Clearwater thuộc tiểu bang Florida.
Cũng như ba tuần trước tôi đi làm nàng đi
theo chơi, lần này đến lượt tôi đi theo
chơi trong khi nàng đi làm. Florida là một bán đảo -peninsula- khổng lồ ở
Đông Nam nước Mỹ, mặt biển bên phải
phía Đông giáp Đại Tây Dương, và mặt biển
bên trái phía Tây giáp Vịnh Mexico. Thành phố Clearwater cũng
là một bán đảo, dân số 108,000 người, cùng
với hai thành phố St. Petersburg và Tampa nằm chung quanh
Vịnh Tampa. Máy bay bay từ
Los Angeles đến Tampa dừng ở Houston, chuyển
tiếp đợi mất một tiếng rưỡi. Thành phố Houston với hơn
hai triệu dân, phi
trường lớn vĩ đại không đáng gì
để nói, nhưng Tampa là thành phố chỉ có hơn
300,000 dân mà phi trường cũng tân tiến, rộng rãi và
khoảng khoát. Mỗi lần dừng chân ở một thành
phố nhỏ trên nước Mỹ với phi
trường to lớn, tân tiến và sạch sẽ, không
lúc nào mà tôi không nhớ lại phi trường Tân
Sơn Nhất rồi tự nhủ thầm không biết
đến chừng nào Việt Nam nước mình mới
bắt kịp xứ người.
Florida
ẩm ướt, chỉ có hai khí hậu: nóng, và nóng
hơn. May là bây giờ chưa phải là mùa hè, và may là xe
hơi nào cũng có máy lạnh. Hơi lạnh của
chiếc xe mướn thổi với tốc độ
mạnh nhất làm chẳng mấy chốc cái áo
ướt mồ hôi của tôi trở nên khô dần. Florida
như là chiếc áo rách đầy những lỗ
nước lớn nhỏ loang lỗ, đi chỗ nào
cũng có nước, và do đó cầu xây khắp nơi.
Từ Tampa đến Clearwater phải qua hai cái cầu mà
một trong hai cái, Courtney Campbell Causeway dài thật
là dài, khoảng 14 cây số. Florida
có hai cây cầu nổi tiếng: Một chỉ cách Clearwater 21 cây
số về phía Nam: cầu
Sunshine Skyway, cầu -có một
phần là cầu treo- dài nhất thế giới, 9 cây
số; và hai là cầu Seven Mile
bridge ở Florida Keys, dài 11 cây số.
Nhà cửa dọc theo đường
đến Clearwater tương đối nghèo nàn, hầu
hết là nhà một tầng, lụp xụp, không duy trì.
Nhiều nhà thuộc dạng nhà tiền chế, trông
rất sơ sài. Dấu hiệu nghèo nàn thấy rõ rệt
trong những cửa tiệm thương mại: tôi
thấy rất nhiều tiệm giặt quần áo bằng
tiền cắc. Đậu xe vào bãi đậu xe của
khách sạn Hilton sau khi biết giá cả năm đô-la một ngày, tôi đoán ngay đây không phải
là nơi khách du lịch thăm viếng tấp nập
đông đảo như ở Hawaii: Muốn đậu xe
ở những khách sạn tọa lạc ngay trên bờ
biển Waikiki ở Hawaii, khách phải trả từ 20
đến 40 đô-la một ngày.
Cát ở bãi biển Clearwater trắng và
mịn như bột. Trắng đến nỗi nó làm tôi
liên tưởng đến sự trái ngược bãi
biển cát đen như hắc ín vì núi lửa cả nghìn
năm về trước ở bãi biển phía Đông
của Oahu, Hawaii. Nhìn về hai bên, phía Bắc hay phía Nam người
ta chỉ thấy hai dải mầu chạy tít cuối
tận chân trời: mầu trắng toát của cát và mầu
xanh dương của biển, đẹp vô cùng. Bãi cát
rộng khủng khiếp, hoàn toàn không có cỏ dại, cát
đến tận building khách sạn. Phần lớn du
khách ở đây đến từ Âu Châu hay các tiểu bang
miền Bắc. Một điều rất lạ tôi
thấy là có lẽ 85% người đi tắm biển
là da trắng. Ít thấy người Á Đông, Mễ, hay da
đen. Nước biển ở đây ấm, không
lạnh run người, sóng cũng không mạnh như
ở California. Bãi biển này thật là lý tưởng cho
gia đình có con nít, tha hồ cho chúng nó tắm mà không sợ
chết đuối vì
nước không sâu, đi cả 30 thước mà nước
vẫn chỉ ngang đầu gối. Nông cạn như
thế thành ra phần biển
gần bãi cát nước có mầu xanh dương nhạt.
Nước tương đối trong vì đứng ở
những chỗ nước ngang đầu gối mình
vẫn có thể thấy bàn chân mất thẩm mỹ của
người khác.
Clearwater là dải đất nhỏ hai
bên là nước: trước mặt là nước
biển vịnh Mexico, đằng sau là nước biển vịnh
Tampa. Đứng ở hướng nào cũng nhìn thấy nước.
Ở trên lầu thứ tám
của khách sạn Hilton nhìn về hướng đất
liền, cảnh trí đẹp mê hồn. Mình vừa
thấy nước biển của vịnh Tampa, vừa
thấy sinh hoạt tầu bè, vừa thấy nhà cửa
lốn nhốn, vừa thấy hai cây cầu, một
nối liền Clearwater với Tampa, một nối liền
Clearwater và St. Petersburg, vừa thấy đèn đuốc ban
đêm, vừa thấy xe cộ tấp nập chạy
dưới đường. Giá có một dải núi ở
xa xa nơi cuối chân trời thì có lẽ ít nơi nào đẹp bằng. Florida
là tiểu bang hoàn toàn chỉ có đồng bằng, núi cao
nhất chỉ cao 105 thước, so với núi cao nhất ở California là Mt. Whitney, cao đến 4400
thước.
Ban ngày nhiệt độ tuy nóng, 90
độ F (32 độ C), nhưng luôn có gió biển nên
cũng mát một phần nào. Buổi chiều nhiệt
độ xuống thấp dễ chịu hơn, 70
độ F (21 độ C), nhưng gió cũng tăng
tốc độ. Mặt nước trong vịnh gợn
sóng nhấp nhô, tầu bè tuy đã buộc vào bờ
nhưng chòng chành giao động, những hàng cây dừa gió
thổi lá tạt hẳn về một bên, cửa kính phòng
khách sạn của tôi hơi cũ kỹ nên tuy cửa
đóng nhưng gió vẫn luồn qua khe hở rít từng
hồi xào xạt. Gió thổi chỉ có 15 miles một
giờ mà đã ảnh hưởng như thế (ra
đường mũ sẽ bay nếu tay không giữ, cát
biển tốc lên người nếu mình nằm trên bãi cát),
tôi không tưởng tượng đến lúc có bão tố
-hurricane- thì tai hại
đến chừng nào. Florida là xứ hurricane, mỗi năm trung bình mười cơn hurricane tàn phá tiểu bang nên
khắp đường phố cứ độ chừng
nửa mile là có bảng cắm “đường di tản-evacuation route” để
hướng dẫn dân chúng đường đến
nơi an toàn.
Dọc theo bãi biển chạy
suốt về phía Nam, số khách sạn lớn khoảng
mười tầng rất là ít nhưng nhà lầu to
lớn loại condo bán cho
dân ở và motel lụp xụp rất là nhiều. Tôi có ghé
vào vài khách sạn xem cảnh trí, nhưng không khách sạn
nào địa điểm tốt bằng khách sạn Hilton.
Bãi cát ở Hilton rộng mênh
mông nhất trong các khách sạn, có lẽ đến 90, 100
thước. Hilton cũng nằm kế bên Pier 60, nơi lúc nào cũng nhộn nhịp
người qua lại. Mình có thể đi bộ ra tận
đầu cầu pier
để xem người ta câu cá, hay ngắm bãi cát từ
ngoài biển nhìn vào. Tối đến khu này lại tấp
nập những gian hàng buôn bán nho nhỏ và các nhạc
sĩ đến hát hò, sống bằng tiền du khách
trợ giúp. Hilton cũng nằm
gần một cái bùng binh như bên Âu Châu, đứng
trên ban công nhìn xe cộ chạy vòng vòng cũng vui mắt.
Bùng binh là một kiến trúc không bao giờ thấy ở
California vì từ xưa đến nay California nghĩ
lầm là bùng binh làm giao thông chậm lại và dễ gây tai
nạn. Ở California chỉ có ngã tư hai
đường cắt nhau 180 độ. Cách đây một
năm tôi đọc báo thấy nói là họ lầm, bùng binh
tuy làm giao thông chậm lại nhưng xe cộ luôn luôn di
chuyển không bao giờ
ngừng. Vì thế mà trong
những khu kiến trúc nhà cửa sau này, họ bắt
đầu xây bùng binh ở California.
Ban ngày bãi biển có đông
đến đâu đi nữa thì buổi chiều hay sáng
sớm như những cơn sóng ập vào lôi cuốn
những dấu chân trên bãi cát trong tích tắc để
lại bãi cát phẳng lặng như tờ, người ta
cũng biến mất hết để lại bãi cát
vắng hoe với những con chim biển thỉnh
thoảng đáp xuống bãi cát tìm thức ăn. Buổi
tối hay sáng sớm chúng tôi thường đi bộ
dọc theo bờ biển. Trong màn đêm tối đen
như mực vì các nhà lầu khá xa nơi sóng biển, thị giác chúng tôi hoàn toàn
biến mất để thay vào đó tai nghe tiếng sóng
nhẹ nhàng liên tục đánh vào bờ một cách êm
ả, chân cảm thấy mát rượi từng
bước đi của nước biển. Cái cảm
giác đê mê biển cả mênh mông vũ trụ rộng
lớn mà chỉ có một mình mình cô đơn trong phần
không gian tĩnh mịch không bóng dáng một người nào
chung quanh, quên hết tất cả những sinh hoạt
thường nhật để biết chỉ có mỗi
một mình và biển cả, thật có tiền bao nhiêu
cũng không đánh đổi được cảm giác quý
báu đó.
Tôi để ra một ngày lái xe đi
xem hai thành phố lân cận, Tampa và St. Petersburg. Tampa tuy
lớn nhất trong ba thành phố, nhưng không có gì mấy
để xem, cảnh cũng không đẹp lắm. St.
Petersburg trái lại tương đối tươm
tất, nhà cửa nhiều chỗ sang trọng, và có The Pier, nơi tọa lạc
một building năm tầng. Tầng trên cùng là một nhà
hàng với quang cảnh bao quát
biển cả mênh mông. Cảnh trí ở đây tuyệt đẹp
nên hôm sau tôi chở vợ tôi và ba người bạn
đồng sự cùng đi dự hội thảo trở
lại nhà hàng này ăn tối. Tom và Cathy có óc khôi hài nên
buổi ăn tối vui nhộn và thời gian qua rất
nhanh. Hôm sau Tom nói với vợ tôi là không ngờ tôi cũng
diễu quá, thành ra mọi người không ai có cảm giác ái
ngại tuy rằng đây là lần đầu tiên mới
gặp nhau.
Họp xong bốn ngày, sáng sớm
Thứ Sáu chúng tôi bay đi Houston. Vợ tôi có một cô
bạn thân thời học Regina Pacis, TH. Tôi cũng có
một người bạn xưa học chung từ năm
lớp Sáu đến năm lớp Chín ở Hùng
Vương mới tái định cư ở đây nên
sẵn dịp trên đường về Los Angeles, chúng tôi
ghé ngang đây vài ngày. Phi trường Houston sạch, tân
thời và thật là rộng.
Tôi đã sợ Thu Hương không tìm ra chúng tôi trong đám
đông người nên đã định mặc quần
tắm Speedo mầu đỏ chói để Thu Hương
dễ bề nhận diện, nhưng vì Thu Hương
không muốn đóng tiền thế chân cho tôi tại
ngoại hầu tra nhỡ tôi bị cảnh sát Houston
bắt giam về tội công xúc tu sỉ khi vừa
bước xuống phi trường nên tôi đành hủy
bỏ ý định đó.
Đường từ phi
trường đến nhà Thu Hương mất khoảng
40 phút. Houston là thành phố máy lạnh vì mùa hè khí hậu nóng
khắc nghiệt. Nhà Thu Hương ở trong khu sân golf Royal
Oaks Country Club, phải qua hai chặng cửa sắt có nhân
viên an ninh gác, ấy vậy còn phải đi đến hai
cây số mới đến
nhà. Nhà kín cổng cao tường như thế này thì kép nhí
nào cũng phải bỏ mạng xa tràng lê xác hấp
hối trước ngưỡng cửa rồi tắt
thở nói không ra lời khi đến viếng thăm nhà
người đẹp. Khu Royal Oaks này thật là to,
chắc đến nghìn căn nhà nên Thu Hương lái cho
chúng tôi tham quan những biệt thự đắt tiền
bạc triệu đô-la, nơi những người làm
vườn và người dọn nhà của Thu Hương
ở. Nhà Thu Hương cũng khá to, trần nhà hơn ba
thước, rất khoảng khoát. Chúng tôi được
ở phòng sát bên phòng mẹ Thu Hương. Bà đã
được cảnh cáo tôi là người Kim Tuyền
phải chặn cửa bằng ghế sắt trước
khi đi ngủ nên tôi để ý bà cũng đã
để sẵn một chiếc ghế ngay bên trong phòng
để chặn cửa phòng bà tối nay.
Địa điểm nhà Thu
Hương thật thuận lợi, đi năm phút đã
ra đến khu Việt Nam ở dọc theo con
đường Bellaire. Buổi trưa Thu Hương cùng
bạn là Bạch Hạc chở chúng tôi ra nhà hàng Kim Sơn
ăn all you can eat, thức
ăn tự chọn. Đất đai ở Texas quá
rộng -Texas là tiểu bang đất đai rộng
thứ nhì trên nước Mỹ, sau Alaska- nên hàng quán
Việt Nam nào cũng to hơn ở California. Chỗ
đậu xe cũng thế, khu shopping nào chỗ
đậu xe cũng dư chỗ cho một trăm
chiếc xe lửa. Nhà hàng Kim Sơn thật đồ
sộ, có đến hai tầng. Chỉ đi rảo
mắt một vòng trong nhà hàng mà tôi cứ tưởng
như mình ở nhà hàng Rex ở Việt Nam: đủ
mọi món thức ăn, món nào cũng thất thật là hấp
dẫn, tất cả dĩ nhiên được ăn thả
cửa: thịt quay, vịt quay, bánh canh, bánh bèo, bún bò
Huế, cháo lòng với dầu cháo quẩy, sushi, cơm
trứng thịt kho, rau xào,
canh, bò bía, gỏi cuốn, cơm tấm bì, hủ
tiếu, thịt xá xíu, tôm chiên...và bao nhiêu món ăn Tầu
khác. Điểm tâm thì ngoài bánh ngọt và trái cây, còn có
cả chè đậu trắng, chè trôi nước và
nước dừa họ để sẵn trong nồi to
như quán Ngon ở Việt Nam. Mẹ của Thu
Hương tuy đã ngoài tám mươi nhưng khi cô
bồi bàn đến hỏi “Bác
uống gì?”, chỉ nghe câu trả lời là tôi thấy
bà cụ rất tân thời. Phần đông các ông bà cụ
già người Việt Nam uống nước trà khi ăn
cơm, riêng bà cụ thì khác: “Cho
tôi một ly Coke!” Danh tiếng của tôi ăn chè thay
cơm chưa gì đã truyền sang tận Texas, bà cụ
bảo tôi “Anh Ngọc ăn chè
ở đây ngon lắm”, rồi khi đi lấy
thức ăn, bà cụ mang trở lại một mâm
nhỏ với hai bát chè đậu trắng và chè trôi
nước. Thu Hương suýt soa chè trôi nước ở
đây rất là ngon, nhưng vợ tôi buộc miệng nói:
“Anh Ngọc không thích chè trôi
nước lắm.” Thấy bát chè bà mang về bàn, tôi
cảm kích chân tình của bà đã dành cho tôi tuy là
người xa lạ mãi tận California chưa bao giờ
gặp, vừa mới biết tôi thích ăn chè thì đã
mang chè đến để mang cho tôi làm tôi nhưng chỉ
năm phút sau bà cụ lấy bát chè đậu ăn sạch
hết một cách ngon lành. Tôi kinh ngạc cất tiếng
phản đối: “Trời
ơi, cháu tưởng bác thương cháu nên lấy chè cho
cháu ăn mà sao bác lại âm thầm
ăn một mình vậy?” Bà cụ phá lên
cười, nói với mọi người: “Anh Ngọc này vui tính quá!”.
Buổi chiều hôm ấy TH mời
gia đình họ hàng đến ăn tối. Vợ
chồng Cẩm Vân từ California cũng nhập bọn,
cùng với hai cô bạn thân của TH cũng ở gần
đó: chị Mimi và Bạch Hạc. BH tôi đã gặp khi
đi ăn trưa ở nhà hàng Kim Sơn. Bao nhiêu năm gặp nhiều
người đấu khẩu, tôi chưa có dịp
gặp đối thủ trên mình cả một trình
độ cho đến tối nay. Chị Mimi là cô gái
Bắc, đanh đá tôi ước gì đừng gặp
mặt. BH là người Huế nhưng nói hao hao tiếng
Bắc, giống như người chẳng những
biết võ Thái Cực Đạo mà còn biết Thái Lâm Tự
nữa. Hai cô này họp nhau lại thì sức công phá không
phải chỉ gấp đôi mà là gấp ba, gấp bốn
lần. Bao nhiêu chưởng tung tới tấp không
ngừng trong suốt buổi ăn làm cả bàn
cười rộ. Không biết có phải vì đầu óc
tôi phân vân lo nghĩ vì TH dọa sẽ cho tôi ăn mì gói trong
suốt thời gian tôi ở đây (tài nấu bếp
của TH nổi tiếng khắp thế giới Việt
Nam Cộng Hòa) hay vì tôi còn ngại chưa dám giỡn
thả cửa với người vừa mới quen biết
mà tôi á khẩu không thể nào trả đũa. Mỗi
lần tôi mở mồm là bị phản kháng ngay lập
tức. Chị Mimi nói: “Mình
chặt đẹp. Anh ấy
nói cái gì thì mình chặt ngay liền lập tức”. Hai cô đe dọa tới tấp
“Chưa thằng nào sợ thằng
này”, “Già mà bày đặt
lớn tuổi” làm tôi mấy lần muốn độn
thổ xuống gầm bàn, đầu hàng vô điều
kiện. Có ai ngờ đâu ngày hôm nay ở Houston tôi
chuốc lấy đại bại, thân bại danh liệt
như thế này. Nhưng cũng may buổi ăn có dài
đến đâu cũng phải chấm dứt: chúng tôi
đến phòng trà Canvas nghe nhạc. Thật là ngộ
nghĩnh khi nghĩ đến ở Los Angeles mấy
chục năm tôi không bao giờ đi nghe hát, thế nhưng mỗi lần đi
đến những chỗ xa xôi như Sàigòn, Paris, hay bây
giờ là Houston, tôi lại cảm thấy thích thú khi đi
nghe nhạc với bạn bè. TH và BH lên hát, tiếng hát
của hai cô thật là hay. Nhất là BH, giọng ngâm thơ
của nàng thật truyền cảm. Không ngờ BH vừa có
tài đấu láo mà còn có tài hát nữa.
Ngày hôm sau chúng tôi đi xem Houston Space
Center, nơi điều khiển tất cả chuyến
bay vào không gian từ Gemini, Apollo…cho đến Space Shuttle bây
giờ. Nhờ tài thuyết phục của Tổng Thống Lyndon Johnson từ
năm 1958 (lúc bấy giờ ông ta chỉ là nghị sĩ
của tiểu bang Texas), Space Center được hoàn thành
tại Houston năm 1961. Xe tram
chở chúng tôi đến Mission Control room, phòng điều
khiển tất cả các chuyến bay vào không gian (chỉ
là một phòng nhỏ trước mặt là nhiều màn
ảnh khác nhau để theo dõi phi hành gia trên không gian và
nhiều hàng ghế cho nhân viên ngồi), phòng có nhiều mô
hình khác nhau của Space shuttle để phi hành gia thực
tập, và building chứa lịch sử của hỏa
tiễn Saturn mà chúng tôi ngồi trên xe đi luôn, không vào xem. So
với bảo tàng viện về máy bay ở Washington DC thì
Houston Space Center là một thất vọng, không có gì
nhiều để xem.
Buổi chiều khi vợ tôi đi
shopping với TH, tôi hẹn gặp Sơn là bạn học
cũ ở Hùng Vương. Đây là lần đầu tiên
tôi gặp Sơn sau gần 35 năm xa cách. Xa nhau từ
thời niên thiếu, bây giờ gặp lại nhau
đứa nào cũng muốn xem đứa kia đã già
đến chừng nào. Và cũng như những bạn
khác sau khi có dịp gặp gỡ, tôi vẫn giữ
chức vô địch già nhất vì mái tóc của tôi bây
giờ đã gần hết tiêu, chỉ còn muối.
7 giờ 30 tối Thu Hương và vợ tôi trở lại đón tôi
đến nhà Bạch Hạc ăn tối. Nhà BH lái xe khoảng chừng 25 phút từ khu
Việt Nam Bellaire. Căn nhà thật đồ sộ từ
bên ngoài. Nhìn bên ngoài ai cũng đoán bên trong to khủng
khiếp. Bước vào trong nhà, quả thật không sai: bên
trong rộng 8000 feet vuông (740 thước vuông) ! Đằng
sau là một cái hồ nhân tạo khá to, nhà nào nhà nấy do
đó phần sau đều nhìn ra hồ. Khi TH nói giá nhà, bụng tôi đau
quặn thót vì giá nhà ở Houston rẻ bằng nửa
ở California! Ấy là nhà
đắt tiền giá từ nửa triệu trở lên. Còn
những căn nhà mới xây ở Houston giá $200,000, ở
California sẽ đắt ít nhất gấp ba lần, khoảng
$600,000. Thấy vợ
chồng Cẩm Vân và vợ
chồng tôi “ngây ngất” trước căn nhà vĩ
đại với hồ bơi lớn gấp hai lần
hồ bơi của nhà tôi ở California, TH và BH bèn mở màn chiêu hồi chiêu
dụ con chiên lạc lối tung cánh chim tìm về tổ
ấm, khuyến dụ tôi dọn về Houston ở gần
hai nàng: bán nhà ở California, mua nhà ở đây to hơn mà
còn dư tiền bỏ vào nhà băng. Texas không có thuế
lợi tức tiểu bang, thức ăn lại rẻ
hơn California có lẽ một tám, một mười. Có
một căn nhà trong khu BH đang đăng bản bán, hình
như 6000 feet vuông thì phải,
giá chỉ có $900,000!
Houston nhà cửa tương
đối rẻ nên người Việt ở khắp
mọi nơi thi đua nhau dọn về đây ở.
Người Việt ở California mới lập
nghiệp, hay không nhiều lợi tức chưa mua
được nhà, dọn về Houston cũng nhiều.
Riêng trường hợp tôi, đã mọc bao nhiêu rễ
ở California nên còn phải nghĩ đến những
bất lợi khác nếu dọn về Houston: thuế
bất động sản đắt gấp ba lần,
tiền bảo hiểm nhà đắt hơn hai lần.
Houston biển xấu, không có danh lam thắng cảnh,
cũng chẳng có chỗ đi giải trí nhiều như
California. Nhà tôi bước chân ra là có thể đi leo núi
hoặc lái xe bốn mươi phút đã ra đến biển.
Khí hậu ở miền Nam California rất ôn hoà, có thể
nói là một trong những nơi có khí hậu tốt
nhất trên thế giới. Bao nhiêu lợi điểm California
có, cộng thêm một điểm nữa khiến tôi
nhất định không thể nào di cư đi Texas: không
ai dại gì mang thân vào vùng
đất địch. Ở cạnh chị Mimi và Bạch
Hạc thì không khác gì như phi công Nhật Bản tự sát
kamikaze vào chiến hạm Hoa Kỳ.
Sáng Chủ Nhật sau khi ăn ở
phở Danh với Thu Hương và BH, Thu Hương
chở chúng tôi ra phi trường. Tôi đã đặt
cọc mướn xe ở phi trường Houston, nhưng Thu
Hương bảo tôi hủy bỏ để nàng chở đi đây đó, và bây
giờ phải nhọc lòng chở chúng tôi lại ra phi
trường. Không biết có phải vì nàng sợ khi tôi lái
xe mướn chạy quá tốc độ 20 miles một
giờ trong khu nhà của nàng thì chủ nhà sẽ phải
đóng tiền phạt là 100 đô-la, nhưng cái chân tình
của Thu Hương đưa đón làm tôi thật
cảm động. Chỉ trong vòng mười tháng mà tôi
mục kích được ân tình quý báu của bao nhiêu bạn
bè.
Danh lam thắng cảnh cho dù
đẹp đến đâu cũng chỉ làm cho mình
trầm trồ khen ngợi, nhưng nó không gây động
được xúc cảm lâu dài trong lòng người. Ngược
lại khi bạn bè gặp nhau, không cần thiết là ở
nơi bàn ăn đấu võ mồm để cười
đùa nghiêng ngửa, hay trong phòng khách thức khuya
đến một hai giờ sáng nói chuyện tâm tình, hoặc
ở những trung tâm shopping sắm hàng giung giăng giung
giẻ, hay bên bếp núc cùng nhau sửa soạn nấu
nướng những món ăn… tất cả những tình
cảm mật thiết đó mới tạo nên những xúc
động tồn tại mãi mãi trong lòng người.
Đó là lý do tại sao đến thăm một thành
phố nào mình có bạn thì luôn luôn vui hơn đến thành
phố mình không có người quen biết. Vì như thế
mà cho dù Houston không có gì khác để thu hút du khách, chỉ bạn bè thôi cũng đủ
là lý do duy nhất để thế nào một ngày nào đó
tôi sẽ trở lại Houston.
Tài Ngọc
Clearwater
Tampa
Space Center – Houston
TÔI ĐỌC TIẾNG VIỆT
Nguyễn Tài Ngọc
Tôi ít vào internet đọc
website tiếng Việt Nam, lý do là tôi không đọc tiểu
thuyết, không nghe nhạc, không muốn xem chuyện vớ
vẩn xe cán chó, chó sinh con. Thỉnh thoảng bạn bè chuyển
tiếp tin tức liên hệ đến Việt Nam hoặc chuyện
ngộ nghĩnh thì vào đọc một tí rồi thôi. Tin tức
thì vào website tiếng Anh đọc cho dễ hiểu chứ
vào website tiếng Việt ở Việt Nam thì
đọc xong lần nào
tôi cũng ngẩn tò te. Không biết có phải đỉnh
cao trí tuệ của tôi càng ngày càng chìm xuồng, hay vì lối
dùng văn của những nhà văn bút Việt Nam bây giờ
quá siêu phàm nên
dân ngu mông đen như tôi không thể nào thấm nhuần tư
tưởng (tác giả tình nguyện sửa đổi và tự
ý đục bỏ chữ dùng nguyên thủy của câu thành
ngữ này, e rằng xâm phạm thuần phong mỹ tục,
có hại đến nền văn hóa Việt Nam).
Nhạc
sĩ Anh Bằng viết bài nhạc Nỗi Lòng Người
Đi rất nổi tiếng: “Tôi xa Hà Nội năm lên mười
sáu khi vừa
biết yêu, đôi tay ngọc ngà dương gian tình ái tôi
đong thật đầy”. Trong khi đó, tôi xa SàiGòn
năm lên mười bẩy, không phải khi vừa biết
yêu (tôi biết yêu năm lên mười một tuổi),
nhưng khi vừa học xong chữ nghĩa tiếng Việt
Nam, đủ dùng trong cuộc đàm thoại thông thường
khi mua bánh mì của bà Ba bán bánh mì hay mua chè của bà Tôm Càng
để họ hiểu mà bán đúng món. Lúc mới sang Mỹ
độ vài tháng, tôi quá tự phụ vào sức học của
mình, nghĩ
rằng chỉ cần ở Mỹ mười năm sau là
tôi sẽ nói tiếng Anh như gió. Ai ngờ rằng
cái trí thông minh mà tôi tưởng bao la như hồ bơi
Nguyễn Bỉnh Khiêm gần sở thú nó lại nhỏ hẹp
như đĩa bò khô đu đủ ở bưu điện.
34 năm sau sống trên nước Mỹ, tôi không nói tiếng
Anh như gió mà nói tệ như chị Sáu bán bar có chồng
là người Phi Luật Tân trong xóm Bàn Cờ cũ của
tôi. “Hó nì, Ốp bần đo. Ai guệt loong tai. (Honey, open door. I wait long
time)”. Tiếng Anh tôi đã nói dở hơi, tiếng Việt
tôi lại ít cơ hội dùng vì không có môi trường
để hòa đồng nên nó cũng dở hơi không kém,
chữ dùng thiển cận, câu văn kém phong phú, về Việt
Nam vào tiệm mua đĩa bánh cuốn có thể họ
không hiểu mà lại dẫn mình đến cửa hàng
đấm bóp cao cấp.
Trong
cùng một quốc gia, chữ dùng của địa
phương có thể khác nhau (bát/chén, ốm/bệnh, muỗng/cùi-dìa, đi te rẹt/đi
công chuyện), thế nhưng căn bản văn phạm
và cấu tạo câu văn không thay đổi. Vì thế mà mặc
dù khả năng tiếng Việt của tôi bây giờ xuống
còn trình độ nguy cập tía em hừng đông đi cày
bừa, đọc thấy sự thay đổi trong cách
dùng tiếng Việt ở Việt Nam làm tôi không cách nào tránh khỏi niềm
ước ao ra tiệm tạp hóa Chú Quay mua vài viên thuốc
an thần búa bổ đầu người uống để
khỏi đỡ nhức đầu.
Tôi
vào một website thông tin văn hóa Việt Nam đọc một
vài bản tin và tiết mục. Không những
vài chữ dùng khác lạ mà cách hành văn, cấu trúc câu
văn cũng không theo đúng văn phạm
Việt Nam: muốn chấm thì chấm, muốn phẩy thì
phẩy, ý tưởng tối tăm, ngắt quãng loạn
xạ. Viết văn bình thường cho nhau
xem có sai cũng không ai chỉ trích, đằng này là nhà báo
câu văn viết không đúng tiêu chuẩn thì người khác
đọc xong sẽ viết lách ra sao?
Tất
cả câu văn sau đây tôi trích ra từ một bản
tin về bão đến miền Trung với tựa
đề “Tối tăm mặt mũi vì giá đội
trời sau bão”.
“Tối
tăm mặt mũi vì giá đội trời sau bão”
Đây là tựa đề bản tin. Tựa
đề là tinh túy của bài văn, tại sao dùng chữ
tầm thường và dài dòng “Tối
tăm mặt mũi” mà không dùng chữ “khốn khổ”? Tôi đọc chữ “sau bão” mà khựng lại
một vài giây vì tối nghĩa. Tại sao lại không thêm
vào mạo từ “cơn”
trước chữ “bão” cho
sáng nghĩa? Ý tôi nên đổi tựa đề đó
như thế này (“giá đội trời” là từ dùng sau
1975): “Khốn khổ vì
vật giá leo thang sau cơn bão”.
Ông Nguyễn Hồng, ở vùng đông Tam Kỳ
cho biết, ngôi nhà của ông bị bão cuốn toàn bộ
mái lợp. Đã 3 ngày qua túc trực tại xưởng
tôn xà gồ trên đường Phan Bội Châu,
nhưng ông vẫn không mua được.
Cả
mệnh đề “ở vùng
Đông Tam Kỳ” là trạng từ bổ nghĩa cho
danh từ riêng, Ông Nguyễn Hồng.
Ông Nguyễn Hồng ở đâu? Ở vùng Đông Tam Kỳ.
Dấu phẩy do đó phải đánh ở sau chữ “Kỳ”, không thể nào sau chữ
“biết”. Câu thứ nhì vừa
phạm luật liên tục đọc nghe ngắt quãng, vừa
tối nghĩa. Ông vẫn không mua được cái gì? Tôn
để lợp nhà hay cả một ngôi nhà khác? Ý tôi nên sửa
lại như thế này:
Ông Nguyễn Hồng,
ở vùng Đông Tam Kỳ, cho biết ngôi nhà của ông bị
bão cuốn toàn bộ mái lợp. Mặc dù đã túc trực
ba ngày liền tại xưởng tôn xà gồ trên đường
Phan Bội Châu, ông vẫn không mua được một
tấm tôn.
“Tuy vậy, do đường bị tắc
trong những ngày qua, nên các mặt hàng trên đang thiếu
trầm trọng, không có mà bán.”
Câu
này luộm thuộm, sao không viết ngắn gọn như
thế này:
“Các mặt hàng trên thiếu trầm trọng không có để bán vì lý do giao thông
gián đoạn.”
“Nóng không kém gì vật liệu xây dựng là
rau xanh.”
Tôi
đọc câu này hai lần mới hiểu ý người viết
muốn nói gì. Chữ “Nóng”
dùng ở đây không phải chữ nóng theo nghĩa nóng/lạnh
mà là chữ dịch ra từ tiếng Anh, có nghĩa là cần
khẩn cấp. Tiếng Việt ta có chữ “khan hiếm”
rất chỉnh, tại sao dùng chữ “nóng” của tiếng Anh, cầu kỳ hóa một
câu văn hoàn toàn không cần thiết? Hơn nữa, chữ
này là tĩnh từ, cần phải
đi theo một danh từ, sửa lại như sau đây
mới đúng:
“Món hàng khan hiếm
trầm trọng không kém là rau xanh.”
“Trước tình hình các mặt hàng thiết
yếu trong xây dựng tăng, sáng 1/10, Sở Thương
mại đã thành lập các đoàn kiểm tra về giá tại
các cơ sở kinh doanh.”
Chữ
“xây dựng tăng” phạm
luật cân xứng khi viết văn. Nếu chữ trước
là danh từ kép thì chữ sau cũng phải kép. Khi đàm
thoại, ta có thể nói “giai nhân đẹp”, “đất
đai tốt”nhưng khi viết, ta phải viết “giai
nhân mỹ miều”, “đất đai trù phú” để đọc cho xuông tai. Tại sao lại có dấu phẩy
sau chữ “sáng 1/10” khi câu mới
bắt đầu chưa hết ý? Tại sao lại dùng giới
từ “về” cho câu văn
thêm rườm rà? Ý tôi nên sửa lại như thế này:
“Để
đối phó với tình trạng vật liệu thiết
yếu về xây cất tăng giá, sáng 1/10 Sở
Thương mại đã thành lập đoàn kiểm tra giá
cả tại các cơ sở kinh doanh.”
“Lão ngư Lê Văn Hoàn cho biết…”
Tôi
để ý người Việt Nam dùng tiếng Hán, tiếng
Nôm, tiếng ..Kampuchea đảo ngược
vị trí lẫn lộn, không theo một thứ tự nhất
định nào. “Lão”, “Ngư”, cả hai đều là chữ
Hán, nhưng không dùng chung với nhau. Tiếng Việt phát xuất
từ tiếng Hán nên hai ngôn ngữ có nhiều điểm
tương đồng, thế nhưng khi tiếng tĩnh
từ bổ nghĩa cho danh từ thì ta lại giống
Pháp, khác hẳn Anh hay Trung Hoa. Ta và Pháp nói : Mây trắng, Nuage
blanc, nhưng Anh và Trung Hoa đổi ngược vị trí
của tiếng tĩnh từ: White cloud, Bạch vân. Do
đó, người đánh cá chữ Hán là ngư ông, ông lão đánh cá tiếng Hán là ngư phụ. Nếu muốn
nói một người già đánh cá thì dùng chữ Việt “bác đánh cá” , ai cũng hiểu, tại
sao lại dùng tiếng Hán nửa chừng xuân như thế
làm gì?
“Ông
Nguyễn …… khẳng định sẽ kiên quyết xử
lý nghiêm các cơ sở kinh doanh tự ý nâng giá sau bão lũ.
Bằng mọi giá sẽ bình ổn giá thị trường
các mặt hàng thiết yếu.”
Sau
1975, chữ “xử lý” thông dụng
hơn chữ “get” của Mỹ.
Cái gì cũng xử lý, tình huống gì cũng xử lý. Vợ chồng
tôi ở cách xa Việt Nam nửa vòng trái đất, thế
mà đi Việt Nam về chỉ lần đầu tiên thôi
mà cái chữ xử lý nó lây vào vợ tôi như là lây bệnh
dịch tả. Khi nghe nàng nói: “Em
sẽ xử lý anh”, thế nào hôm đó tôi cũng bị
khiển cáo. Do đó, tôi sợ
còn hơn tù nhân sắp sửa
bị đem ra pháp trường
hành quyết mỗi khi nghe nàng đề cập đến
chữ “xử lý”. Nhưng một hôm sau khi nghe nàng nói “Em sẽ xử lý anh tối nay”,
tối hôm ấy từ lúc ăn cơm chiều đến khi đi ngủ tôi sợ
vãi đái ra quần, ăn ngủ không yên, không biết sẽ
bị nàng chửi như thế nào thì cái hình phạt nàng xử
lý đêm hôm đó lại khác, tôi hoàn toàn không bị rủa
xả gì hết, mà lại ...sướng. Vì vậy, tôi cứ
ước mong nàng xử lý tôi mãi như thế. Chữ “xử
lý” trong câu này tôi nghe không quen tai vì sống ở hải ngoại.
Chữ “nghiêm” sau chữ “xử lý” phạm lỗi cân xứng.
Câu thứ nhì “Bằng mọi
giá..” không có chủ từ, do đó phải bỏ dấu
chấm trước chữ “Bằng”.
Câu này nên đổi:
“Ông Nguyễn ….… khẳng định sẽ kiên quyết
dùng biện pháp nghiêm trọng với các cơ sở kinh doanh tự ý
nâng giá sau bão lũ và bằng mọi cách sẽ bình ổn
giá thị trường cho các mặt hàng thiết yếu.”
Đây
là tựa đề bốn bản tin mà chủ từ đảo
ngược, đọc tối nghĩa. Trường hợp
đảo ngược này đôi khi được những
thi sĩ điêu luyện dùng
trong thơ. Dùng trong văn viết thì tôi thấy hơi
…quái đản, thế mà không hiểu tại sao rất nhiều
website Việt Nam lại dùng lối đảo ngược
chủ từ này:
-Ngộ nghĩnh chợ Trung thu
sớm.
(nên viết “Chợ Trung Thu ngộ nghĩnh
khai trương” .Tại sao chợ Trung Thu ngộ
nghĩnh tôi cũng chả hiểu)
-Gập ghềnh đường đến trường.
(nên viết “Đường đến
trường gập ghềnh”)
-Tù mù chức trách, thanh tra công vụ không thể nhập cuộc. (Nhà chức trách lờ mờ khiến thanh tra công vụ
không thể nhập cuộc)
-Nở rộ phụ huynh sắm máy tính cho trường
học. (Theo một
anh bạn tôi ở Việt Nam, “nở
rộ” có nghĩa là hào hứng. Thế thì tại
sao không viết “Phụ
huynh hào hứng sắm máy tính cho trường học?)
Bốn năm trước khi tôi về
Việt Nam, đi xe hơi từ SàiGòn về Vĩnh Long, trên
xa lộ cứ cách nửa cây số là có một bảng to
bằng Vạn Lý Trường Thành cắm dọc theo lề
đường với hàng chữ
“Luật lệ giao thông bắt
buộc phải đội mũ an toàn đối với
người lái xe gắn máy”. Một câu thật
đơn giản mà họ lại viết quá rườm
rà, mệnh đề đổi ngược. Câu ấy
đáng nhẽ nên viết như thế này: “Luật giao thông bắt
người lái xe gắn máy phải đội mũ an toàn”. Đọc nghe có phải xuôi tai hơn không?
Có nhiều tiếng ngoại quốc
dịch ra tiếng Việt Nam tôi đọc nghe không hiểu
hay quá ấu trĩ. Các cụ ta ngày xưa không dịch nhưng âm hóa tiếng ngoại
quốc, biến “savon” thành “xà-phòng”, “bougie” thành “bu-gi”,
“cyclo” thành “xích-lô”, manchon” thành đèn “măng-xông” …Những
chữ ấy thông dụng cho mãi đến bây giờ. Không
phải chỉ riêng mỗi một nước Việt Nam mới
có vấn đề nan giải tìm tiếng
nước mình để đặt tên cho một sản
phẩm mới của Anh, Mỹ hay Pháp. Chữ
“taxi” tiếng Anh được nhiều quốc gia nhất
trên thế giới dùng nó là ngôn ngữ riêng của mình.
Vì thế mà tôi nghĩ người Việt Nam không nên dịch
digital camera là máy ảnh kỹ thuật số, scanner là
máy quét, radio là cái đài …..
Chữ
nào của Anh
hay Pháp mà mình có chữ tương tự thì không nên dùng chữ
của họ. Ở Việt Nam, trong tất cả nhà
ăn ở trường học và bệnh viện, tôi
đều thấy có bảng treo hàng chữ : “Căn-Tin”. Tôi thật tình không hiểu tại sao mình không dùng
chữ “Nhà Ăn” mà lại dùng tiếng ngoại quốc?
Nếu muốn dùng chữ ngoại quốc để cho
khách nước ngoài hiểu (ở phi trường chẳng
hạn), thì nên dùng chữ cafeteria vì
“căn-tin” không đúng
nghĩa. “Căn-tin” nguyên thủy từ chữ
Pháp Cantine, Mỹ viết là Canteen. Cantine là nhà ăn trong một căn cứ quân
sự, hoặc cũng có nghĩa là nhà ăn xây dựng tạm
thời trong một trường hợp tai biến khẩn
cấp nào đó. Trường học, nhà thương… không
phải là căn cứ quân sự, và nhất định
nhà ăn bây giờ là vĩnh viễn trong những cơ sở
này, không có vẻ gì là tạm thời và do đó không thể
nào là “căn-tin” được.
Việt Nam bây giờ
dùng nhiều chữ lạ nghĩa so với trước
75:
-Khả năng (trước
75: sức có thể làm được, sau 75 :
a. có thể xẩy ra (bão có khả
năng đổ bộ vào đất liền, khả
năng dây điện làm chết em bé học sinh), b. sức
có thể làm được)
-Liên hệ (trước 75, liên
lạc)
-Biên chế (a. chính thức, b.
sắp xếp lực lượng)
-Bức xức (khó chịu, cần
giải quyết ngay)
-Sự cố (hỏng, trở
ngại, hiện tượng bất thường không hay xẩy
ra)
-Tranh thủ (trước 75: cố
gắng)
-Hệ quả (hiệu quả)
-Chất lượng (trước
75, phẩm chất)
Đã có nhiều
email trên Internet giải thích ý nghĩa không chỉnh hoặc
không ổn tai của những chữ này
và nhiều chữ khác nên tôi không muốn lập lại ở
đây, thế nhưng chữ “chất lượng” tôi nghe
ngứa tai nhất. Thí dụ như trong câu: “Nhiếp ảnh gia Nguyễn
Văn Thìn phản ứng khá gay gắt về chất
lượng của những ảnh đã đoạt giải
danh dự.”
Trước 75 người Việt Nam đã dùng chữ đúng nghĩa là “phẩm chất”. Phẩm chất là quality, qualité, không có lượng, không xác định được bằng một con số cụ thể. Lượng là mức độ nhiều ít, có thể xác định được bằng một con số cụ thể, quantity, quantité. Phẩm chất không cần chất lượng để xét đoán phẩm chất. Do đó phê bình đến cái phẩm của một vật gì mà bao gồm cả chất lẫn lượng là sai hoàn toàn.
Tôi đồng ý chữ quốc ngữ không phong phú nên đôi khi cần chữ Hán Việt để ý nghĩa được minh bạch, thế nhưng tại sao mình dùng chữ Hán khi tiếng Việt mình không thiếu? Thí dụ như chữ “sự cố”: “Xe tôi bị hỏng”, nghe không rõ nghĩa hơn là “Xe tôi có sự cố” sao? “Máy bay của hãng Japan Airlines vừa phải hạ cánh khẩn cấp vì động cơ trục trặc”, nghe không hay hơn “Máy bay của hãng Japan Airlines vừa phải hạ cánh khẩn cấp vì động cơ gặp sự cố” sao?
Một chữ Việt Nam nữa tôi thấy hay là “nhà thương” (thương ở đây là thương người, không phải bị thương). Trước và sau 75 mình đều dùng chữ Hán, “bệnh viện”. Cả chữ hospital của Anh và hôpital của Pháp đều từ tiếng gốc Latin có nghĩa là quý và tử tế với khách thân cũng như khách lạ, như trong chữ Anh hospitality. Hospital là nơi săn sóc bệnh nhân. Chữ nhà thương dịch rất đúng và sát nghĩa, mình không dùng mà lại dùng chữ bệnh viện, đọc nghe rởn da gà như xem chương trình lúc 0 giờ.
Viết văn, nhất
là tiếng Anh, mất thì giờ vì phải tra khảo tự
điển xem chữ viết có đúng chính tả hay không. Người viết
cho báo chí hay websites lại càng phải cẩn thận tra cứu
kỹ lưỡng chữ dùng trước khi bài viết
được đăng tải. Ấy thế mà họ
hay ghép một chữ của hai danh từ đơn hay kép
khác nhau để thành một từ mới với hai chữ,
tôi cắn răng buộc bụng đốt đèn dưới
ánh trăng để tra tự điển tiếng Việt
của nhà Xuất Bản Khoa Học Xã Hội Hà Nội mà
vẫn không tìm ra nghĩa:
-Gói kích cầu (tôi
đoán là kích thích nhu cầu?)
-….tạo được đồng thuận (tôi đoán là
đồng ý thuận hòa?)
- Quy
chụp, nâng quan điểm
là bóp chết sáng tạo! (Quy
chụp: Chữ này thì tôi thua, chụp hình để quy
y?)
Phê bình người viết văn trong nước mà không chỉ trích cái sai của người Việt hải ngoại thì không quân bình. Báo chí Việt Nam ở đây có một câu làm tôi khó chịu nhất, không thua gì chữ “chất lượng”, trong phần quảng cáo bán nhà: “Nhà Bán Bởi Chủ”. Tiếng Việt Nam không có thể thụ động. Mình nói : “Con mèo ăn con chuột”, không ai nói “Con chuột ăn bởi con mèo”. Nhà làm sao “bị” bán bởi chủ được? Do đó, phải nói: “Nhà chính Chủ bán”.
Tiếng Việt Nam rắc rối vì không có sự đồng nhất của mọi người đồng ý dùng theo một tiêu chuẩn nhất định. Thật ra, khó có sự đồng nhất vì tiếng nước ta nghèo nàn không phong phú như chữ Hán: họ có thể ráp hai chữ để tạo thành một chữ mới (chữ minh –sáng- là do hai chữ nhật –mặt trời-, và nguyệt – mặt trăng- ghép lại), hoặc họ chỉ quẹt thêm một, hai gạch nữa là thành chữ khác (chữ nhất, quẹt thêm hai gạch thành chữ tam). Tôi có ý định tương tự như ông Alexandre de Rhodes, cải cách chữ quốc ngữ lần thứ nhì cho ngôn ngữ Việt Nam phong phú hơn. Thí dụ như chữ mông, quẹt thêm một gạch tương tự như dấu sắc sẽ trở thành thiếu mông (có nghĩa là xấu), thêm gạch tương tự như dấu huyền trở thành nhiều mông (mập), thêm gạch tương tự như dấu nặng trở thành xẹp mông (gầy), thêm gạch tương tự như dấu hỏi trở thành đủ mông (đẹp), thêm gạch tương tự như dấu ngã trở thành vỡ mông (đau), thêm gạch tương tự như dấu ê trở thành ê mông (tê)…..Tôi đã chủ tâm hoàn thành việc cải cách chữ quốc ngữ vô tiền khoáng hậu này trong vòng mười năm nữa, thế nhưng cứ theo đà một tuần vợ tôi đòi xử lý tôi mấy lần vào ban đêm thì đến khi người ở hành tinh khác phát hiện ra trái đất, chưa chắc gì tôi đã thực hiện xong hoài bão.
Nguyễn Tài Ngọc
CRUISE MEXICO, MEXICAN RIVIERA
Nguyễn Tài Ngọc
Từ xưa đến nay tôi không thích đi cruise vì sợ giam mình vào
một chỗ mấy
ngày liên tiếp cùng với cả nghìn người từ
mọi tầng lớp khác nhau trong xã hội, từ
tướng cướp Bạch Hải Đường
đến phi hành gia Neil Armstrong cực kỳ xì-mạc,
thế nhưng thật là khó tin chỉ sau khi đi
chuyến cruise lần đầu tiên trong đời vào
tháng 7, ba tháng sau vợ chồng tôi lại đi chuyến
cruise thứ nhì từ hải cảng Los Angeles đến
ba thành phố Puerto Vallarta, Mazatlan, Carbo San Lucas ở ven
biển phía Tây của Mễ Tây Cơ, Mexican Riviera.
Chuyến cruise đi bẩy ngày, khởi hành từ 4
giờ chiều Thứ Bẩy, trờ về lúc 7 giờ
sáng Thứ Bẩy tuần sau. Chủ Nhật, Thứ Hai và
Thứ Sáu lênh đênh trên biển. Thứ Ba, Tư, Năm
ghé bến. Quãng đường khứ
hồi là 2617 miles, 4210 cây số.
Cùng đi với chúng tôi lần
này là vợ chồng anh tôi, anh Trúc & chị Lan ở Anaheim, và vợ chồng anh Hân &
chị Châu từ San Jose. Ra phi trường Burbank đón anh
chị Hân, máy bay bay không đến một giờ đã
hạ cánh, chưa đủ thì giờ cho hành khách ăn
nốt gói đậu phọng Southwest Airlines làm ơn làm
phước biếu không cho hành khách đi máy bay của hãng
mình. Từ đó chúng tôi lái xuống nhà anh tôi ở Anaheim và
rồi cả bọn trực chỉ hải cảng Los
Angeles, Berth số 93 ở World Cruise Terminal, nơi tầu
Sapphire của hãng Princess chờ đón khách để
khởi hành lúc 4 giờ chiều.
Tuy rằng gần 2,600 hành khách
sẽ lần lượt đến để lên tầu,
thủ tục làm giấy tờ của Công An Cửa
Khẩu (ấy chết, xin lỗi quý độc giả
đã dùng chữ sau 1975, thảo nào vừa viết xong
đọc lên tôi đã nghe thấy rợn người),
của Quan Thuế, việc khảo sát giấy tờ
rất nhanh chóng. Trên tờ giấy liệt kê các bệnh
trạng, người nào điền vào không bị bệnh
tương tư là a lê hấp, tiến ngay đến
quầy của hãng cruise Princess để họ phát cho
một thẻ như là thẻ tín dụng -credit card- rồi lên thẳng vào tầu. Khi ở trên tầu, khách hàng dùng thẻ này thay vì
dùng tiền để mua sắm tất cả mọi
sự.
Hầu hết tầu mới
sau này đều thiết kế tương tự như
nhau: một, hai tầng cao nhất là hồ bơi, gym, golf,
paddle tennis, tường trèo, sân chạy bộ, nhà hàng… Sáu, bẩy tầng kế tiếp là phòng ngủ.
Hai, ba hay bốn tầng kế tiếp là nhà hàng, rạp
ciné, phòng nghe nhạc, internet, phòng làm đám cưới,
quầy bán rượu, phòng
đánh bài, phòng chơi video, thư viện, cửa
hàng bán đủ mọi thứ ngoại trừ bánh rê bánh
cay…Sau những tầng này lại là một hai tầng phòng
ngủ nữa. Phòng ngủ có nhiều
loại, và dĩ nhiên giá cả khác nhau. Từ phòng
đắt nhất to như một mini suite có hành lang nhìn ra biển đến phòng trung bình có
cửa sổ, hoặc rẻ hơn, bít bùng. Muốn phòng
vừa rẻ vừa có biển bao bọc bốn bên
cũng có: họ cho mình lên một cái phao nổi, buộc
dây vào tầu lớn, khi chạy thì nó kéo đi. Dĩ nhiên
mua vé loại này thì tính mạng mình không ai bảo
đảm, huống chi là nói đến vấn đề ăn uống.
Chiếc tầu Sapphire này có
đến chín nhà hàng: Hai nhà hàng loại buffet all you can eat
mở 24 giờ một ngày: một đầy đủ
tất cả các loại thức ăn, một là món ăn
truyền thống của Mỹ như hot dog, hamburger, pizza,
gà nướng. Bốn nhà hàng
loại có người hầu bàn đến phục
vụ, món ăn hạn chế một
món trên menu, mình phải gọi đặt chỗ mỗi khi
muốn đi ăn. Một là nhà hàng loại “shang”
trọng có người hầu bàn mỗi tối mình
đến ăn vào giờ đã ấn
định sẵn, trường hợp chúng tôi là 5:45
chiều. Nếu không muốn ăn ở nhà hàng này vào giờ cố
định mỗi tối, mình có thể đi bốn nhà
hàng khác vào bất cứ lúc nào. Có hai ngày khách đến ăn phài mặc quần áo “nịch” sự,
đàn ông áo vest hay tuxedo. Tất cả nhà hàng
đều miễn phí. Nếu ai có tiền không
biết để đâu cho hết thì có thể vào hai nhà
hàng khác lịch sự thứ thật: mỗi người
phải trả $25 dollars. Nước uống
thì chỉ có nước lạnh (nước rô-bi-nê, tap
water) là miễn phí, còn thì tất cả đều tính
tiền. Cả chiếc tầu của hãng Princess và tầu trước tôi đi của hãng
Carnival đều âm mưu ám muội vào buổi ăn
tối. Trước khi dùng bữa, họ hỏi mình dùng
nước loại gì, nước trong chai hay nước
“chích” có hơi, loại Perrier mà không nói cho mình biết là
cả hai đều tốn tiền (ngược lại,
nước tap water thì miễn phí). Ở khách
sạn room service đắt hơn một tháng lương
công nhân nhưng ngoài tiền $3 dollar service charge, room service
trên tầu hoàn toàn miễn phí. Nếu không nuốn
đi ăn nhà hàng thì khách tha hồ
ở trong phòng gọi thức ăn cho họ mang
đến.
Nhét 2600 người vào một
chỗ không có gì cho họ giải trí chẳng chóng thì
chầy cái tầu Sapphire sẽ trở thành nhà tù Bastille đánh dấu sự
mở đầu cho cuộc
nổi loạn của người Pháp vào tháng 7 năm 1789.
Ngoài những ngày tầu
cặp bến vào ba thành phố Puerto Vallarta, Mazatlan, Carbo San
Lucas cho khách mạo hiểm đất lạ, trên tầu có
bao nhiêu là sinh hoạt khác nhau: gym, hồ bơi (tầu này
có cả chục hồ bơi và spa, một hồ bơi là
indoor vì nó đi cả Alaska), đấm bóp,
đường chạy bộ, golf, miniature golf, paddle tennis,
ciné, đánh bài, video games, karaoke, trò chơi đủ
loại, nhiều ban nhạc khác nhau chơi đủ
loại nhạc sống, học nhẩy đầm, nắn
vôi, ban đêm thì có ca vũ nhạc, ảo thuật, hề
chọc cười, … xem như không thiếu một món gì.
Ở nhà tôi không bao giờ nghe nhạc, đi xe
thỉnh thoảng nghe một
lần, ấy thế mà khi ở trên tầu tôi lại rất
thích đi nghe họ đàn hát. Lý do thứ nhất là vì
ghế salon ngồi quá ư là êm mông, thứ hai là những
ban nhạc trên tầu không chơi nhạc điên rồ bây
giờ ca sĩ hét lời tôi nghe không hiểu mà chơi
nhạc êm dịu: một ban nhạc Mariachi người
Mễ, một ban nhạc jazz, một ban nhạc trẻ
người Anh chơi nhạc thời 1960 và 1970. Giống như chúng ta nghe nhạc
Việt xưa cũ làm mình nhớ lại một quãng
thời gian nào đó trong quá khứ, thời điểm
1975-1977 tôi mới sang Mỹ sống nơi đất
lạ quê người nhớ nhà, nhớ quê hương nên
những bản nhạc Mỹ thời bấy giờ
như những lọ đèn thần giữ năm tháng mang
tôi vượt qua bức tường thời gian trở
lại đúng cái cảm giác buồn man mác hơn ba
mươi năm về truớc.
Ban nhạc trẻ người Anh chơi bản
nhạc Hotel California,
nổi tiếng vào năm 1977 tôi nghe không biết bao nhiêu
lần trên radio, hai ngày ngồi nghe họ đánh đàn không
thua gì bản nhạc nguyên thủy làm tôi nghĩ chỉ nghe
họ chơi bản nhạc này là cũng đã bõ tiền
đi cruise :
(Điệp
khúc):
Welcome to the hotel Caifornia,
Such a lovely place.
Such a lovely place.
Plenty of room at the hotel Califonia
Any time of year, you can find it here.
Giống như casino ở Vegas dụ mình
đến ở khách sạn giá rẻ nhưng hy vọng
sẽ lấy tiền lại khi mình thua bài, hầu như
tất cả dịch vụ cung ứng giá tiền trên
tầu chém thẳng tay. Internet
75cents/ 1 phút, mua tối thiểu $55. Đi đâu
họ cũng chụp hình mình, một tấm 8 x 10 giá
$20. Tầu
chỉ chở khách đến bến. Muốn
xem thắng cảnh, lặn hụp, câu cá… cả chục
chuyến du lịch khác nhau đều tính tiền. Cách rẻ tiền nhất là khi xuống bến
mình tự tìm người địa phương, trả
giá chỗ nào mình muốn đi. Ở Puerto Vallarta, anh
Hân và tôi trả giá với một anh người Mễ
chở chúng tôi đến một bãi biển của
người địa phương, chở và đợi
chúng tôi xuống biển chơi rồi chở lại
về tầu, cho dù mọi người ngăn cản. Khi
xe chạy xa
thành phố vào khu rừng rậm cây cối um tùm
người ở thưa thớt, mọi người trong
xe lên ruột, mặt xanh
như tầu lá nghĩ rằng mình đi không hẹn ngày
về vì anh ta chở mình đến một nơi thanh
vắng cho mấy người Mễ buôn lậu bạch
phiến nổi tiếng thế giới bắt làm con
tin. Ở Mazatlan, vừa
bước ra khỏi cổng an toàn phạm vi của
tầu, bước vào đường xá trong thành phố với
cả dân số nước Mễ bu quanh chúng tôi gạ
chở đi xem thắng cảnh, một ông già chống
gậy đi đứng khập khễnh ráng thuyết
phục chúng tôi đi xe van của ông ấy. Sau khi thỏa
thuận giá cả, ông ta bảo chúng tôi đứng chờ
để đi lấy xe ở góc
đường. Vừa bước đi vài
bước, cái chân bị tật của ông ta vấp
phải đá làm ông ta ngã chúi xuống đất. Mọi người hùa nhau đến đỡ
ông ta dậy. Nhìn bộ mặt khẩn trương và
đoán được ý nghĩ do dự của chúng tôi không biết
có nên đi với ông ta hay không khi thấy cánh tay bên
phải của ông ta đầy máu, ông ta phân trần
lớn tiếng: “Don’t worry
senor, I’m not driving. I have a driver
who will drive. I just come along with you guys”. Ai nấy cũng
kinh hoảng khi thấy máu trên cánh tay ông
ta chẩy mỗi lúc càng nhiều, nhưng tôi thì lại
thấy một dịp may. Trên đường đi xe ông ta có ngủm củ tỏi vì bị
nhồi máu cơ tim thì tôi khỏi phải trả tiền!
Phòng ngủ trên tầu tuy không
to bằng khách sạn nhưng cũng không nhỏ bằng
phòng trong tiềm thủy đỉnh. Rest room rất là nhỏ, tay tôi với đụng trần phòng. Phòng tắm cực kỳ nhỏ, mấy lần
tôi rớt cục xà bông mà không tài nào nhặt nó lên
được vì xoay hướng nào mông mình cũng
chạm bốn bức tường Đông Tây Nam Bắc khi
cúi xuống để nhặt nó lên. Hệ thống
giật nước của toilette như là máy bay, có
nghĩa là nó hút nước đi chứ nước không
lặng lẽ trôi đi một dòng sông xanh xanh như
toilette ở nhà. Nhưng sức hút của nó mạnh
gấp trăm lần trên máy bay. Nó mạnh
đến nỗi có bảng chỉ dẫn phải
đậy nắp lại trước khi bấm nút
giật nước. Một khi bấm nút xong thì
tiếng nước cuốn như cuồng phong độ
kinh khủng cấp 5, cả nước biển Thái Bình
Dương tràn vào rồi cuốn đi tất cả di
tích lịch sử của bồn toilette trong tích tắc. Tôi
nghĩ chắc chắn phải có người đãng trí ngồi bình
chân vại không đóng nắp rồi bấm nút giật
nước như ở nhà. Bảo
đảm nó hút cả người đó ra bên ngoài xuống
tận đáy biển.
Trên tầu họ làm phòng hai ngày
một lần.
Hãng cruise tính thêm tiền tip, pourboire, bồi dưỡng
$11/ một ngày/một
hành khách nhưng vì gặp họ thường lệ nên
chúng tôi cho thêm tiền cho anh làm phòng và anh hầu bàn ở
nhà hàng ăn tối. 2600 hành khách không phải là ít, vậy
mà số nhân viên trên tầu cũng ngoài sức tưởng
tượng: 1100 người từ 52 quốc gia khác nhau. Phi Luật Tân và Ấn Độ nhiều
nhất, ở đâu cũng thấy con cháu của cựu
tổng thống Ferdinand Marcos và Mahatma Gandhi. Mỹ chỉ có loe que vài mạng. Người Anh khá đông. Nhân viên da trắng
phần đông là từ các nước Đông Âu và Nam
Mỹ. Anh Phi Luật Tân làm phòng nói cho tôi biết là họ
làm 12 giờ một ngày, một tuần làm bẩy ngày không
nghỉ. Lương lãnh khoán, không trả
overtime. Tùy theo hợp đồng
khác nhau, trường hợp anh ta thì làm mười tháng,
nghỉ bốn tháng (không ăn lương), một anh
người Argentina khác thì làm sáu tháng, nghỉ một tháng.
Lương của họ tùy thuộc vào số
lượng hành khách, thay đổi không cố định
vì tiền thu vào ưu tiên trả phí tổn trước
(xăng nhớt, duy trì tầu.,
lương nhân viên chủ chốt…), phần còn lại
mới trả cho họ.
Tầu nào cũng có một khoảng
trống ở giữa rất nguy nga tráng lệ. Nơi đây tập trung hàng
quán shopping, thư viện, quầy bar,
ghế ngối thư giãn, và thường thì có vài
người đánh đàn trống, hay piano. Tiếng Anh khoảng
trống này là atrium mà anh tôi
gọi đùa là “sảnh đường”. Khi mua vé, tìm
được phòng ngủ gần “sảnh
đường” thì rất thích vì chỉ cần
bước vài bước là mình đã đến khu
thị tứ nhộn nhịp, ngồi đó nghe nhạc
hay xem ông đi qua bà đi lại dĩ nhiên thú vị hơn
là đóng đô trong phòng.
Tôi sợ đi máy bay vì thường bị ói. Lần trước đi cruise gần đất
liền biển lặng sóng yên nhưng lần này chưa
đi đêm nhiều thế mà đã có ngày gặp ma.
Ngày thứ hai tầu gặp cơn bão Patricia phải né
tránh tìm đường khác. Chỉ chạy
ở ven bão thôi mà tầu nhồi lên xuống, sóng nửa
thước đến một thước đánh vào
tầu cộng với gió ngược chiều thổi làm
con tầu chòng chành suốt buổi chiều và đêm.
Nhức đầu không chịu nổi, tôi mở hộp
thuốc say sóng đọc cách chỉ dẫn: “Uống trước khi lên
tầu” ,
thành ra uống vào hai viên thay vì một cũng đã quá
trễ: bao nhiêu mật xanh mật vàng tôi ói ra hết. Đêm vài tiếng tôi ngủ ngồi không dám
nằm vì nằm thân thể chao đi chao lại làm mình còn
nhức đầu hơn nữa.
Kỹ nghệ du lịch bằng thuyền là
một trong những ngành thương mại thu
tiền nhiều nhất thế giới. 70% tiền
lợi tức đến từ các đường
biển có bến cặp ở Bắc Mỹ: Canada, Mỹ,
Mễ Tây Cơ, các xứ nhỏ ở vùng biển Caribbean.
Chỉ đi từ Long Beach/Los Angeles đến vùng Mexican Riviera mà đã có
sáu hãng cruise: Carnival, Princess, Royal Caribbean, Norwegian, Holland
America, Celebrity X Cruises. Tầu cập bến trở về
ban sáng, khách xuống tầu, nhân viên chuẩn bị dọn
dẹp tầu cho sạch sẽ, tiếp tế xăng
nhớt lương thực mới, khách mới lên tầu,
chiều tầu nhổ neo đi một tuần nữa và
cứ thế mà tiếp tục, đi đến không ngừng.
Chiếc tầu Sapphire tôi đi thì đặc biệt, tùy theo mùa nó đi khắp mọi nơi: Alaska,
Canada, Hawaii, New England và Mexican Riviera.
Đi cruise lần này chỉ là lần thứ hai
nhưng tôi rất thích. Không điện thoại,
không email, không đời sống làm lụng hì hục hằng
ngày, ăn uống thả giàn, xem bao nhiêu show ca nhạc, ngồi
ghế salon thoải mái nghe nhạc sống, thăm viếng
được nhiều nơi, không phải tiêu nhiều tiền,
đủ thứ phương tiện tập thể dục,
tha hồ chụp hình lắm nơi đẹp trên đất
liền cũng như cảnh hùng vĩ của biển cả.
Nếu là hai vợ chồng đi honeymoon thì thật không có
du lịch nào khác sánh bằng, Đôi uyên ương trẻ
không những hưởng được tất cả mọi
sự tôi đã liệt kê bên trên, mà khi nói đến tình yêu
lãng mạn, tối ngày có thể ở trong phòng để “sáng bẩy chiều ba, đêm vào
tiên cảnh”. Tôi chỉ ước ao trở
lại thời trẻ tuổi để cũng có thể
thực hiện được giấc mộng đó, thế
nhưng xui xẻo cho tôi, đời chỉ là một giấc
mơ. Già cú đế như tôi thì “sáng bẩy chiều ba, đêm kêu cấp cứu”
chứ không thể nào vào tiên cảnh được
Nguyễn Tài Ngọc
Khi có bất cứ dấu hiệu bất thường nào về sức khỏe thì bạn đừng ngần ngại, mà hãy nhấc điện thoại gọi đến hotline 1900 633 698 hoặc đến ngay Đa khoa Phương Nam để nhận tư vấn chi tiết từ các bác sĩ chuyên khoa cũng như bác sĩ tư vấn sức khỏe của Đa khoa Phương Nam nhé!
ReplyDelete>>> Khám bệnh tốt nhất có chi phí tốt nhất
Khi răng sâu bạn phải làm sao ?
ReplyDeleteNếu bạn được chẩn đoán bị viêm tủy răng, viêm chân răng… Thì sẽ được bác sĩ chỉ định nhổ bỏ răng sâu. Sau đó, nên nhanh chóng trồng lại răng mới để không làm ảnh hưởng tới sức khỏe hay thẩm mỹ.>>>Thông tin giúp bạn chọn địa chỉ nhổ răng uy tín ?