Tốc độ phim (Film speed) là thước đo độ nhạy của một tấm phim ảnh với
cường độ ánh sáng môi trường. Các tiêu chuẩn quốc tế hiện hành sử dụng
chuẩn ISO để biểu thị độ nhạy phim thay cho chuẩn GOST từng được Liên Xô
áp dụng cho các thiết bị quang học của mình trước năm 1987. Ba chuẩn
ISO 5800:1987, ISO 6:1993 và ISO 2240:2003 sẽ được dùng lần lượt cho
phim màu âm bản, phim đen trắng âm bản và phim màu đảo ngược. Chỉ số ISO
càng nhỏ thì độ nhạy sáng của phim càng thấp nhưng tấm ảnh bạn thu được
sẽ đỡ bị nhiễu và thể hiện được nhiều chi tiết hơn.
Trong các thiết bị thu hình kỹ thuật số, ISO dùng để chỉ độ nhạy sáng
của cảm biến hình ảnh (hay còn gọi là cảm quang). Tương tự nguyên tắc áp
dụng cho phim ảnh, thiết lập ISO càng thấp thì cảm biến càng kém nhạy
với ánh sáng môi trường, tức là bức ảnh xuất ra sẽ càng tối nếu đặt cùng
một tốc độ màn trập. Bù lại, bức ảnh này sẽ mịn hạt và ít xuất hiện
những chi tiết giả số. Sự phát triển của kỹ thuật sản xuất linh kiện
điện tử và các thuật toán xử lý dữ liệu
đi kèm đã giúp nâng độ nhạy sáng ISO trên máy ảnh lên tới con số
102.400 (Nikon D3s, Canon 1D Mark IV), gấp 32 lần độ nhạy sáng cao nhất
của phim ảnh (Kodak T-Max 3.200). Lưu ý rằng, giá trị ISO cũng ảnh hưởng
đến độ tương phản động trên ảnh. ISO dao động trong khoảng 50 - 400
thường cho ra những bức ảnh có độ tương phản lý tưởng ứng với khả năng
thể hiện dải màu tốt nhất của cảm biến.
|
Hai ảnh chụp cùng một đối tượng với thiết lập ISO 100 (trái) và ISO 3.200 (phải).
ISO càng thấp, ảnh càng đỡ bị nhiễu hạt và có dải tương phản rộng.
|
Thông số phơi sáng (tính bằng giây) và nhạy sáng (tính bằng ISO) luôn là
hai vấn đề gây nhiều phiền nhiễu nhất đối với người cầm máy, đặc biệt
là những người mới bắt đầu. Phần lớn máy ảnh kỹ thuật số trên thị trường
hiện nay đều hỗ trợ khá nhiều giá trị ISO, trong đó phổ biến nhất là
dải ISO từ 100 đến 800. ISO càng cao, cảm biến càng nhạy với ánh sáng.
Do đó, thời gian mở cửa trập sẽ càng nhanh, giúp bắt được chuyển động
nhanh hoặc tránh nhòe ảnh do sự lung lắc của thân máy. Một số kỹ thuật
nhiếp ảnh đặc biệt như chụp chậm, phơi đêm và đồng bộ chậm flash lại yêu
cầu thời gian mở cửa trập khá lâu (1/20 cho đến hàng chục giây). Để đảm
bảo bức ảnh không bị thừa sáng quá mức, bắt buộc bạn phải hạ thấp giá
trị ISO và/hoặc khép sâu khẩu độ F-stop.
Những tình huống chụp khác nhau đòi hỏi người chụp linh hoạt trong việc điều
chỉnh các thông số, đặc biệt là giá trị nhạy sáng ISO. Ảnh: Nguyễn Tiến Hòa
ISO 100
thường được coi là giá trị nhạy sáng mặc định (normal) để giúp bạn có
được một bức ảnh chuẩn nhất với một lượng không đáng kể nhiễu hạt.
Khi thiết lập ISO, luôn phải đặt ra bốn câu hỏi trong đầu:
1. Ánh sáng - đối tượng đã đủ sáng chưa?
2. Nhiễu - bạn muốn một bức ảnh không có nhiễu hay hơi nhiễu một chút để tăng tính nghệ thuật?
3. Chân máy - có cần sử dụng chân máy hay không?
4. Đối tượng chuyển động - đối tượng của bạn đang chuyển động hay đứng yên?
Với những tình
huống chụp ngoài trời và chân dung đủ sáng, thông thường, nên đặt ISO
100 hoặc 200. Nếu thời điểm chụp là lúc trời âm u sắp mưa hoặc sáng sớm
mà bạn lại không có chân máy, hãy đẩy ISO lên cao một chút (khoảng 400
đến 800). Một số tình huống bắt buộc phải thiết lập giá trị nhạy sáng
ISO ở mức cao nhất có thể như nhiếp ảnh thể thao trong nhà, rạp hát, nhà
thờ, phòng trưng bày nghệ thuật, những nơi không cho phép sử dụng đèn
flash hoặc flash không có tác dụng rõ rệt.
Tìm hiểu ISO kỹ thuật số bài 2 |
|
|
|
Sự khác nhau về ISO xuất phát từ cách thức ghi lại hình ảnh của máy phim và máy số khác nhau.
|
|
Tony Lorentzen đã dùng máy ảnh Canon
EOS 7D, để nắp che ống kính và ghi lại hình ảnh tại mọi ISO để xem mỗi
chế độ sẽ tạo ra sự khác biệt về độ nhiễu hạt như thế nào (xem video).
Cuộc thử nghiệm đã đem đến một kết quả khá ngạc nhiên: Độ nhiễu của hình
ảnh không tăng theo tuyến tính khi ISO tăng cao, có nghĩa là, một bức
ảnh với ISO 160 có thể ít nhiễu hơn ISO 100, hay một bức với ISO 640 có
thể cũng chỉ nhiễu bằng ISO 100.
Vấn đề thực sự ở đây là gì?
Với phim, mọi chuyện
có vẻ như rất đơn giản: Nếu bạn sử dụng một cuốn phim có ISO cao, hình
ảnh sẽ bị nhiều hạt. Còn nếu khi bạn muốn chất lượng hình ảnh ở mức cao
nhất, ít hạt nhất, hiển nhiên phải chọn phim có ISO thấp nhất.
Tuy nhiên, theo thử
nghiệm của Lorentzen, ISO trên máy số không hoàn toàn như vậy. Sự khác
nhau về ISO xuất phát từ cách thức ghi lại hình ảnh của máy phim và máy
số khác nhau. Thêm vào đó, các thông tin ảnh trên máy ảnh số còn được xử
lý trước khi định hình thành ảnh xuất ra ngoài.
Phim ISO cao dễ bị
nhiễu hạt hơn do các hạt tinh thể bạc bắt sáng lớn hơn (để thu được
nhiều ánh sáng). Còn với máy ảnh số, ISO cao được điều chỉnh bằng cách
khuếch đại tín hiệu đầu ra của cảm biến, và khi ISO càng cao, nghĩa là
càng bị khuếch đại, ảnh sẽ càng bị nhiễu hơn. Nghe có vẻ ISO trên ảnh số
cũng có thuộc tính thay đổi giống như trên ảnh phim. Nhưng trong trường
hợp ngược lại, với ảnh phim, khi lắp một cuộn phim với ISO thấp, ảnh sẽ
trở nên mịn. Còn với ảnh số, ISO nếu bị điều chỉnh thấp hơn mức ISO nội
tại, sẽ lại bị can thiệp bởi bộ xử lý hình ảnh và sẽ giảm thiểu chất
lượng hình ảnh đi so với ISO cao hơn. Đó thực ra cũng mới chỉ là một
phần nhỏ trong toàn bộ tổng thể các yếu tố có thể sinh nhiễu trên máy
ảnh số.
Trong khi trên phim,
hình ảnh thu được là kết quả của việc các hạt bạc thu nhận ánh sáng và
qua quá trình tráng phim rọi ảnh, thì trên máy ảnh số, hình ảnh là kết
quả của quá trình ánh sáng đi vào các đi-ốt cảm quang trên cảm biến, đặc
tính và kích cỡ của các cảm quang, bộ lọc RGB và low-pass, mạch cảm
biến, bộ chuyển đổi tương tự/số, bộ xử lý hình ảnh và thuật toán xử lý
riêng của từng hãng sản xuất nữa.
ISO nội tại là gì?
ISO nội tại của cảm
biến chính là mức thu nhận ánh sáng mà ở đó hình ảnh ít được máy ảnh xử
lý nhất. Về lý thuyết, ở mức nội tại này, chất lượng hình ảnh sẽ ở mức
tốt nhất.
Các hãng sản xuất máy
ảnh không bao giờ công bố ISO nội tại của máy, nhưng thông thường nó sẽ
rơi vào khoảng ISO 100 – 200. Họ chỉ đưa ra một câu chung chung kiểu
như "dải ISO này cho phép người chụp có thể tùy chọn để có bức ảnh đẹp
nhất, phù hợp với nhu cầu của người dùng nhất".
Đi-ốt cảm quang của
một cảm biến có một độ nhạy nhất định với ánh sáng, từ đó hình thành nên
một mức độ nhạy sáng định trước cho một cảm biến (ISO nội tại). Tuy
nhiên, một mình đi-ốt cảm quang không làm nên hình ảnh. Đóng góp vào cả
quá trình này còn có bộ chuyển đổi tương tự/số trong máy, bộ xử lý hình
ảnh và thuật toán xử lý… Chính vì thế, ở máy số, tốc độ ISO là dành để
nói về toàn bộ khả năng bắt sáng của máy ảnh chứ không chỉ về mỗi cảm
biến như đối với máy phim.
Mỗi hãng sản xuất lại
có phương thức bí mật đặc trưng riêng trong việc căn chỉnh các mức ISO
khác nhau. Dưới đây là một ví dụ để người dùng dễ hình dung tại sao ảnh ở
ISO thấp có thể còn có chất lượng tệ hại hơn là với ISO cao.
Ví dụ, một máy ảnh
DSLR có ISO nội tại là 160. Để tăng ISO lên cao, bộ xử lý sẽ khuếch đại
tín hiệu, kéo theo nhiễu hình ảnh cũng tăng do cũng bị khuếch đại theo.
Để giảm ISO thấp hơn, bộ xử lý lại "nhào nặn" tín hiệu xuống, cũng kéo
theo sự suy giảm chất lượng hình ảnh. Chẳng hạn, khi cần đẩy ISO lên
320, dữ liệu thu được từ ISO 160 nội tại sẽ được khuếch đại lên gấp đôi.
Nhưng để đạt được ISO 250, bộ xử lý hình ảnh lại lấy tín hiệu đã được
khuếch đại ở ISO 320 và điều chỉnh xuống ISO 250. Vì thế mà chất lượng ở
ISO 250 còn tệ hơn so với tín hiệu tại ISO 320. Về đại thể, mỗi cấp ISO
cách nhau một giá trị gấp đôi, nên nếu một ISO nội tại của máy ảnh là
160 thì mức đặt ISO tối ưu sẽ là 160, 320, 640… Các mức 100/200/400/800…
sẽ là bước "lỡ cỡ" vì thế sẽ bị xử lý nhiều hơn, chất lượng sẽ suy giảm
hơn.
ISO số là gì?
|
Thử nghiệm ISO trên máy ảnh Pentax K-5. Ảnh: Digitalphotopro.
|
Mức ISO được đặt ra
trên cơ sở các tiêu chí chuẩn hóa từ Tổ chức tiêu chuẩn thế giới
(International Organization for Standardization_ISO). Tổ chức này đặt ra
chuẩn chung cho hầu hết mọi vấn đề.
Như đã đề cập, ISO số
đề chỉ mức độ bắt sáng chung cho toàn bộ máy ảnh chứ không chỉ riêng
cho cảm biến, bởi lẽ hình ảnh số là tổng hợp các quá trình xử lý liên
hoàn giữa cảm biến, bộ xử lý hình ảnh, bộ chuyển đổi tín hiệu… Mục tiêu
của việc chuẩn hóa thông số ISO cho cả máy phim và máy số là: nếu người
dùng đặt thông số phơi sáng là ISO 100, lắp phim 100, chụp với tốc độ
1/100 và độ mở f/16, thì hình ảnh thu được phải có độ sáng tương đương
như khi chụp bằng máy kỹ thuật số với ISO đặt ở 100, tốc độ đặt ở 1/100
và độ mở ở f/16. Tuy nhiên, độ nhiễu trên máy phim và máy số sẽ khác
nhau, bởi trong khi nhiễu của máy phim chỉ phụ thuộc vào mật độ các hạt
bạc trên phim (ISO của phim) thì nhiễu trên máy số có thể sinh ra từ rất
nhiều nguồn do hình ảnh từ lúc vào cảm biến đến lúc định hình phải trải
qua rất nhiều quá trình xử lý khác nhau.
CMOS và CCD
Ở thời kỳ đầu của
công nghệ hình ảnh, cảm biến CCD có chất lượng hình ảnh tốt hơn hẳn cảm
biến CMOS vốn bị nhiễu nhiều hơn và độ cảm quang thấp hơn, khó có thể
đặt được các mức ISO cao. Tuy nhiên, hầu hết DSLR ngày nay, kể cả những
phiên bản cao cấp nhất có những mức ISO siêu cao cũng đã sử dụng cảm
biến CMOS do những thế mạnh riêng của công nghệ này. Cảm biến CCD giờ
vẫn tiếp tục được sử dụng trong các máy ảnh medium-format và các thân số
(digital-back) dùng để gắn trên các máy phim. Có thể nói, với công nghệ
hiện nay, cả hai loại cảm biến này đều cho phép máy ảnh chụp hình ảnh
với chất lượng rất cao.
Chuẩn ISO 12232:1998
đã được sửa đổi năm 2006 và được đặt lại thành ISO 12232:2006. Chuẩn năm
2006 thêm vào hai phương pháp mới được Hiệp hội CIPA (Nhật Bản) đưa ra.
Gần đây lại có thêm hai phương pháp điều chỉnh ISO khác là REI và SOS
đang được phần lớn các máy ảnh số mới hơn áp dụng.
Về cơ bản, phương
pháp SOS (Standard Output Specification) dùng cách đo lượng ánh sáng
thuần túy của cả hệ thống hình ảnh (gồm cảm biến, bộ xử lý…), gần giống
như cách xác định ISO trên máy phim. Còn phương pháp REI (Recommended
Exposure Index) lại dựa trên kết quả hình ảnh đầu ra mà các nhà sản xuất
cho là có chất lượng tối ưu nhất. Lưu ý, phương pháp SOS không áp dụng
cho ảnh RAW và cả hai phương pháp SOS lẫn REI cũng chỉ áp dụng cho các
ảnh với hệ màu sRGB. Vì thế, nếu người dùng chụp ảnh định dạng RAW với
hệ màu Adobe RGB 1998 thì mức ISO hoàn toàn chỉ mang tính tham khảo (các
máy ảnh gần đây của Canon, Nikon và Sony dùng chuẩn REI trong khi
Olympus, Pentax và Samsung dùng chuẩn SOS. Còn Sigma thì không tiết lộ
phương pháp của mình bởi hãng dùng cảm biến 3 lớp đặc trưng Foveon).
Thay đổi ISO
|
Khi người dùng muốn
thay đổi ISO với máy phim, họ hoặc phải đổi phim có mức ISO tương ứng,
hoặc dùng các kỹ thuật gia giảm (push/pull-process) trong quá trình
tráng phim để kích hay bù sáng. Còn đối với máy số, khi thay đổi ISO
người dùng chỉ cần chỉnh đến đúng mức mình cần bằng menu hoặc nút điều
chỉnh. Vì thế, lợi thế máy số so với máy phim là người dùng có thể chụp
một ảnh ở tất cả các mức ISO mình muốn.
Khi người dùng đổi
một cuốn phim từ mức ISO này sang ISO khác, ví dụ đổi từ ISO 100 lên ISO
400, họ sẽ có một mức ISO mới với độ nhạy sáng gấp 4 lần ISO cũ, có thể
chụp một hình ảnh với độ sáng tương đương nhưng tốc độ nhanh hơn 2 lần
hoặc độ mở hẹp xuống hai khẩu. Còn nếu xử lý hậu kỳ lúc tráng phim bằng
kỹ thuật gia giảm, đẩy phim ISO 100 lên độ sáng tương đương như ISO 400,
thực tế là họ không làm tăng thêm độ nhạy vật lý của phim mà chỉ là
khuếch đại ánh sáng thu được thông qua các phản ứng hóa học để có một
hình ảnh tốt hơn.
Đối với máy số, khi
người dùng đổi từ mức ISO này sang ISO khác, thao tác này sẽ tương tự
như việc xử lý bằng kỹ thuật gia giảm trong khi tráng phim chứ không
giống như khi thay phim. Như đã đề cập ở trên, cảm biến hình ảnh có một
độ nhạy nội tại định trước với ánh sáng, do đó, các mức ISO điều chỉnh
cao hơn hay thấp hơn độ nhạy nội tại này đều là các mức có được do
khuếch đại hoặc điều chỉnh tín hiệu từ độ nhạy gốc, từ đó dẫn tới chất
lượng hình ảnh cũng bị giảm đi, nhiễu tăng lên, giải tương phản thấp hơn
và chất lượng màu sắc kém đi. Thậm chí kể cả hình ảnh được chụp với mức
ISO nội tại của máy cũng đều đã qua xử lý, bởi lẽ thông tin trên cảm
biến đơn thuần chỉ là thông tin cho đến khi các bộ xử lý hình ảnh xử lý
và chuyển thành hình ảnh có thể xem được.
Dải ISO thường và ISO mở rộng
Trước khi được xử lý,
hình ảnh số chỉ là những dữ liệu điện tử. Kể cả hình ảnh được chụp với
ISO nội tại cũng phải qua quá trình xử lý mới có thể hiện hình được. Vì
thế,hình ảnh chụp tại các mức ISO khác so với ISO nội tại còn bị xử lý
nhiều hơn.
Trong máy ảnh, dải
ISO thông thường là dải mà các nhà sản xuất đưa ra với ý nghĩa dù được
xử lý nhưng chất lượng hình ảnh vẫn trong khoảng được coi là đẹp. Nhiều
máy ảnh hiện nay cho phép mở rộng dải ISO cao hơn hoặc thấp hơn dải
thông thường (chẳng hạn ISO 80 – 12.800 so với thông thường ISO 100 –
6.400). Chất lượng trên các mức ISO mở rộng rõ ràng sẽ còn bị suy giảm
nghiêm trọng hơn bởi chúng được xử lý nhiều hơn. Nhưng không phải là
không có mặt tích cực. Khi bạn cần ảnh hơn chất lượng, bạn có thể chụp
với mức ISO lên tới 102.400 trên Nikon D3S hay Canon EOS-1D Mark IV. Rõ
ràng bạn sẽ thấy ngay nhiễu rất nhiều, nhưng với tiêu chí có ảnh còn hơn
không thì số nhiễu này rõ ràng vẫn còn quá hợp lý so với một mức ISO
"khủng" như vậy.
Vậy ISO nào là tốt nhất?
Trong khi các nhà sản
xuất vẫn "ém nhẹm" thông tin về ISO nội tại, tốt nhất người dùng tự thử
nghiệm mức ISO nào là lý tưởng (gần với ISO nội tại nhất) trên máy của
mình. Tất nhiên,cũng đừng vì thế mà ham chụp đúng ISO nội tại trong
những điều kiện thiếu sáng để kết quả là một hình ảnh mịn nhưng lại mờ
do tốc độ quá thấp.
Nếu mốn thử xem độ
nhiễu trên các mức ISO của máy mình ra sao, có thể dùng cách chụp ảnh
với nhiều mức ISO khác nhau nhưng không mở nắp ống kính. Hình ảnh thu
được, mặc dù đều tối đen nhưng khi bạn mở trong Photoshop, tăng tỷ lệ
phóng đại lên 100%, sử dụng tính năng Auto Contrast, bạn sẽ hình dung
được nhiễu xuất hiện như thế nào trên từng hình ảnh khi so sánh những
kết quả này.
Nếu DSLR của bạn có
cả chức năng quay video, hãy thử nghiệm cả với tính năng này nữa bởi lẽ
mức ISO lý tưởng cho video có thể không giống mức lý tưởng cho ảnh.
Nhưng đây cũng không
phải là thử nghiệm duy nhất. Một khi đã biết được mức ISO tối ưu cho máy
ảnh của mình xét về mức độ sinh nhiễu, bạn phải chụp cảnh thật cũng với
nhiều mức ISO khác nhau để so sánh với kết quả chụp trong phòng, bởi lẽ
ở cảnh thật độ nhiễu khó nhận biết hơn nhiều.
Tất nhiên là để có
một bức ảnh đẹp, luôn phải tính đến điều kiện sáng tương quan kèm với
ISO thôgn qua tốc độ, độ mở nữa. Đôi khi do hoàn cảnh, để có được một
bức ảnh dùng được, bạn vẫn phải chụp với mức ISO thấp hoặc cao hơn ISO
lý tưởng. Mức ISO của máy ảnh và của một bức ảnh được coi là tối ưu hay
không, thực ra đều tùy thuộc vào con mắt đánh giá của chính người chụp
nó.
( theo http://sohoa.vnexpress.net )
|
|
Tìm hiểu cảm biến máy ảnh số |
|
|
Các
máy ảnh kỹ thuật số hiện nay đều sử dụng chip cảm quang, chứa hàng
triệu pixel nhỏ bé để tái hiện thông tin về màu của một bức ảnh. Số lượng pixel càng lớn, ảnh có độ phân giải càng cao. Tuy
nhiên, chất lượng ảnh (bao gồm độ nét, độ rộng của dải tương phản và độ
bão hòa màu...) lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó quan trọng
nhất là ống kính và cấu trúc cảm quang.
Khi
nhấn nút chụp, ánh sáng sẽ đi qua hệ quang học phức tạp của ống kính và
tạo ảnh trên bề mặt sensor. Quá trình phơi sáng (exposure) được thực
hiện tại cảm biến cho đến khi cửa trập của máy ảnh đóng lại. Các điểm
ảnh rất nhỏ trên cảm biến có một vùng đặc biệt để thu nhận ánh sáng gọi
là "photosite". Tại đây, các lượng tử ánh sáng được "bẫy" và giữ lại.
Khi quá trình phơi sáng kết thúc, photosite lập tức đóng và hệ thống
mạch của sensor sẽ phân tích số lượng photon ánh sáng rơi vào "bẫy"
quang học tí xíu này. Số lượng photon mà máy đếm được sẽ cho ra dữ liệu
về cường độ sáng của từng kênh màu mà photosite thu nhận. Dữ liệu này
tiếp tục được tập hợp để cho ra một ma trận điểm ảnh. Khả năng chính xác
màu sắc mà sensor thu nhận được gọi là độ sâu màu. Chẳng hạn, ảnh có độ
sâu màu 8 bit sẽ tái hiện được tối đa 255 màu.
|
Minh họa lượng tử ánh sáng và "bẫy" photosite. Ảnh: Cambridgeincolor.
|
"Bẫy"
lượng tử có thể cùng lúc thu nhận các hạt ánh sáng với mức năng lượng
khác nhau rơi vào. Tuy nhiên, hệ thống mạch hỗ trợ không thể phân biệt
được "màu" của từng hạt riêng biệt. Kết quả, ta sẽ thu được một bức ảnh
xám xịt với rất ít chi tiết nổi bật. Để tạo ra một bức ảnh màu hoàn
chỉnh, mỗi "bẫy" được trang bị một màng lọc ngay phía trên. Các màng lọc
sẽ chỉ cho ánh sáng có một màu nhất định đi qua. Hầu hết máy ảnh kỹ
thuật số hiện nay, bẫy được thiết kế để một trong ba màu cơ bản (đỏ,
lục, lam) rơi vào. Hệ thống màng lọc màu này có tên gọi thông dụng là
"dãy Bayer" (Bayer array).
|
Minh họa dãy Bayer trên sensor máy ảnh: Ảnh: Mellpc.
|
Một
dãy Bayer bao gồm những hàng có màu lục-đỏ và lục-lam xen kẽ nhau. Số
lượng màng lọc lục lớn gấp đôi số màng lọc đỏ hoặc lam vì mắt người nhạy
cảm với ánh sáng xanh lục hơn so với những màu còn lại. Mặt khác, một
lượng lớn các điểm ảnh lục sẽ tạo ra hình ảnh có ít nhiễu và độ chi tiết
cao hơn so với ảnh tạo bởi 3 màu cơ bản có mật độ ngang nhau. Điều này
cũng lý giải tại sao nhiễu thường xuất hiện mạnh trên kênh đỏ và lam hơn
là trên kênh lục.
Chú ý,
không phải tất cả máy ảnh hiện nay đều sử dụng dãy Bayer để bẫy ánh
sáng cho các photosite. Cảm biến Foveon trong model máy ảnh Sigma SD9 và
SD9 có thể bẫy được tới 3 màu cho cùng một pixel. Các máy ảnh Sony còn
có dãy màng lọc bắt được tới 4 màu: đỏ, lục, lam và xanh ngọc bíc.
|
Quá trình xử lý
được thực hiện bằng cách kết hợp màu trong từng ô kích thước 2x2 chứa
các giá trị đỏ, lục, lam. Máy sẽ kết hợp các ô 2x2 nằm gối lên nhau để
tăng độ phân giải. Ảnh: Wikipedia.
|
Vì
mắt người nhạy cảm với ba vùng quang phổ gần tương ứng với màu đỏ, lục,
lam, nên chỉ cần dùng ba nguồn sáng này để tạo ra cảm giác về hầu hết
màu sắc trong tự nhiên. Như vậy, quá trình xử lý để tạo ra một bức ảnh
được thực hiện bằng cách kết hợp màu trong ô kích thước 2x2 chứa các giá
trị đỏ, lục, lam gần nhau nhất. Quá trình này sẽ tiếp diễn với ô kích
thước 2x2 kế tiếp. Tuy nhiên, việc này sẽ khiến số điểm ảnh theo mỗi
chiều sẽ giảm đi một nửa. Biện pháp giải quyết hữu hiệu nhất là máy sẽ
kết hợp các ô 2x2 nằm gối lên nhau để tăng độ phân giải. Quá trình này
cũng giúp tăng luôn tương phản và tăng sự mượt mà cho dải màu trên ảnh.
Lưu ý,
máy sẽ cắt bỏ giá trị màu của hàng và cột ngoài cùng trên cảm biến vì
các hàng và ô này không nằm gối lên nhau. Pixel thừa gọi là điểm ảnh
không hiệu dụng, mặc dù chúng vẫn có ích trong quá trình xử lý. Một số
thuật toán khác cũng được sử dụng để tạo ra hình ảnh với độ phân giải và
chất lượng cao hơn nhiều mà lại ít gây ra nhiễu. Các vi xử lý cũng được
tích hợp công nghệ loại bỏ các chi tiết giả nhằm cho ra bức ảnh với khả
năng tái hiện chân thực nhất.
|
Minh họa một microlens với tác dụng hất phần ánh sáng bị bỏ rơi vào photosite. Ảnh: Digitalmedia.
|
Trên
thực tế, cácphotosite không nằm sát cạnh nhau. Chúng chỉ chiếm khoảng
nửa diện tích của cảm biến vì còn phải nhường chỗ cho các thiết bị vi
điện tử khác. Điều này sẽ dẫn đến việc có rất nhiều lượng tử ánh sáng bị
"bỏ rơi" do không được bẫy vào photosite. Các nhà chế tạo đã khắc phục
hạn chế này bằng cách tăng độ lớn của mỗi photosite để chúng có thể thu
được nhiều ánh sáng hơn đồng thời thiết kế một thấu kính nằm phủ phía
trên photosite gọi là microlens. Các microlens này có nhiệm vụ hất những
lượng tử ánh sáng bị bỏ rơi vào đúng chỗ của chúng trên photosite. Một
sensor được thiết kế tốt với các microlen đặt chuẩn xác có thể cải thiện
tốt màu sắc, độ sáng cũng như giảm tối đa nhiễu cho ảnh. Những nhà sản
xuất chip cảm quang hàng đầu, như Canon hay Sony, đã biết cách tận dụng
những cải tiến trong việc chế tạo microlens để giảm hoặc hạn chế noise
mặc dù các photosite đã bị ép nhỏ tới mức "kinh hoàng" để tăng thêm độ
phân giải cho máy ảnh.
|
Thiết lập các thông số của máy ảnh số |
|
|
Ngoại
trừ một vài thông số thông dụng có các nút chỉnh riêng còn các thông số
khác khi muốn chỉnh phải truy cập vào Menu hay Function.
Sau đây là cách thiết lập các thông số cơ bản:
-
Focus (lấy nét): Chức năng điều chỉnh độ rõ cho ảnh chụp.
-
Auto Focus (AF): Lấy nét (tiêu cự) tự động với Multi AF (nhiều điểm trên ảnh) và Center hoặc Spot AF (điểm chính giữa ảnh, hoặc có thể tự chọn).
-
Manual Focus: Chỉnh nét bằng tay, dùng trong trường hợp lấy nét tự động không được hoặc không chính xác.
-
Focus mode: Chế độ lấy nét với Continuous AF (lấy nét liên tục kể cả khi không chụp) và Single AF (chỉ lấy nét khi chụp).
-
Metering Mode:
Chế độ đo sáng, giúp cho máy ảnh nhận biết độ sáng của ảnh. Thông
thường máy ảnh số có nhiều kiểu đo sáng để phù hợp với từng kiểu chụp.
Evaluative: Lấy giá trị sáng trung bình toàn ảnh.
Center-Weighted: Lấy giá trị sáng của toàn ảnh nhưng nhấn mạnh ở phần chính giữa (trọng tâm) của ảnh.
Spot: Lấy giá trị sáng của một điểm duy nhất trong ảnh.
Auto White Balance: Tự động cân bằng trắng, thường chính xác trong đa số trường hợp.
Daylight: Ánh sáng mặt trời.
Cloudy: Ánh sáng trong bóng râm.
Tungsten: Ánh sáng của đèn sợi tóc (đèn tròn).
Fluorescent: Ánh sáng đèn Neon thường.
Fluorescent H: Ánh sáng trắng của đèn Neon.
Custom: Tự chỉnh cân bằng trắng.
Flash Off: Không sử dụng Flash.
Flash On: Sử dụng Flash.
Flash Auto: Tự động Flash khi cần thiết.
Red-eye: Giúp giảm hiện tượng bị mắt đỏ khi chụp ban đêm với đèn Flash.
Flash Output: Điều chình ánh sáng Flash mạnh hay yếu.
-
ISO:
Thông số độ nhạy sáng, thông số càng cao thì ảnh càng sáng. ISO giúp
tăng sáng trong các trường hợp chụp ở nơi thiếu sáng mà không thể sử
dụng Flash hay chụp ở tốc độ cao. Lưu ý nếu chỉnh thông ISO càng cao thì
ảnh sẽ càng bị nhiễu hạt, trong trường hợp này có thể sử dụng chức năng
Noise Reduction để giúp giảm nhiễu hạt cho ảnh.
-
Resolution: Độ phân giải của ảnh, thông số này sẽ quyết định đến kích thước của ảnh với các mức:
-
Small (VGA, 1MP): Độ phân giải thấp, ảnh thường chỉ được dùng để xem trên màn hình vi tính.
-
Medium (2MP, 3MP,...): Độ phân giải trung bình, dùng khi in ảnh có kích thước thông thường (10x15cm, 13x18cm,...).
-
Large (5MP, 6MP,...): Độ phân giải cao, dùng khi in ảnh có kích thước lớn (20x30cm hoặc hơn).
-
Quality & Compression: Chất lượng và độ nén ảnh, độ nén càng cao thì chất lượng ảnh sẽ càng giảm. Thông thường có 3 cấp độ:
Normal: Ảnh có chất lượng trung bình và dung lượng nhỏ, sẽ chụp được nhiều ảnh.
Fine: Ảnh có chất lượng tốt và dung lượng lớn hơn Normal, đây là thông số thông dụng.
Super Fine: Ảnh có chất lượng cao và dung lượng cũng lớn nhất, dùng thông số này khi muốn ảnh có chất lượng cao.
|
Tìm hiểu về định dạng ảnh RAW |
|
|
Theo
cách hiểu đơn giản, RAW là một mớ dữ liệu "thô" được máy ảnh "trộn"
lên. Không như định dạng JPEG, ảnh RAW không được chỉnh nét hay tông màu
ngay trên ảnh. Vì vậy, quá trình xử lý hậu kỳ phức tạp trên máy tính,
như chỉnh màu và phơi sáng với định dạng này trở nên dễ dàng hơn nhiều.
Bên cạnh đó, file RAW giữ lại nhiều dữ liệu ở vùng sáng/tối giúp dễ dàng
khôi phục lại chi tiết.
|
|
Quá trình xử lý ảnh RAW. Ảnh: Letsgodigital.
|
|
|
|
Ảnh RAW thường được đánh giá cao hơn, nhưng định dạng này chỉ giới hạn
cho dòng máy ngắm chụp cao cấp và DSLR. Tuy vậy, hầu hết máy ảnh, kể cả
dòng DSLR, đều không thể chụp liên tiếp tốc độ cao trong thời gian dài
khi ghi dưới định dạng RAW. Lý do là bộ nhớ đệm của máy có giới hạn
và bị "đầy" nhanh hơn so với khi ghi dưới định dạng JPEG.
Dưới đây là những thông tin cơ bản về định dạng ảnh này.
1. Khởi động chức năng ghi định dạng RAW trên máy.
Người chụp nên đặt trên menu tùy
chọn nhanh một yêu cầu cho phép chuyển đổi giữa ghi định dạng RAW hay
JPEG. Một số dòng máy cũng cho phép ghi đồng thời RAW và JPEG, tuy nhiên
sẽ tốn bộ nhớ hơn, vì vậy hãy dùng thiết bị lưu trữ dung lượng lớn khi
muốn chụp đồng thời RAW và JPEG.
Một số máy ảnh có khả năng ghi định
dạng sRAW có dung lượng nhỏ hơn định dạng RAW chuẩn. Định dạng này hữu
dụng khi người chụp chỉ mang thẻ nhớ dung lượng nhỏ, nhưng chú ý là độ
phân giải ảnh thấp hơn nên không thể xuất ảnh in cỡ lớn được.
2. Các định dạng RAW khác nhau.
Canon
|
.CRW .CR2
|
Nikon
|
.NEF .NRW
|
Sony
|
.ARW .SRF .SR2
|
Pentax
|
.PTX .PEF
|
Olympus
|
.ORF
|
Hasselblad
|
.3FR
|
Leica
|
.RAW .RWL .DNG
|
Không phải tất cả ảnh RAW đều có
chung định dạng file mở rộng. Máy ảnh của Canon thường xuất file .CRW
hoặc .CR2, trong khi máy của Nikon xuất file .NEF. Người chụp sẽ cần các
phần mềm khác nhau để mở các định dạng này. Chúng thường được cung cấp
trong đĩa CD đi kèm khi mua máy.
Trong những năm gần đây, ngành công
nghiệp hình ảnh đã và đang thúc đẩy các hãng sản xuất máy ảnh chuẩn hóa
lại định dạng file RAW của mình. Định dạng .DNG (digital negative, có
thể hiểu là "âm bản số") của Adobe đi đầu trong việc này, nhưng đến nay
hầu hết các hãng đều chưa chấp nhận.
|
|
Ảnh của tác giả Đặng Trung Tú.
|
|
|
|
3. Phần mềm xử lý định dạng RAW.
Ngày nay, khi mua máy ảnh số, nhà
sản xuất thường cung cấp kèm một đĩa CD phần mềm xem và chỉnh sửa hình
ảnh. Nếu máy cho phép ghi file RAW, phần mềm đi kèm cần cho phép xem,
chỉnh sửa và xử lý ảnh RAW. Nhưng phần mềm của hãng nào chỉ chỉnh sửa
được định dạng RAW của hãng đó. Tuy vậy, vẫn có phần mềm của hãng thứ
ba, ví dụ Lightroom của Adobe, có thể xử lý các định dạng RAW khác nhau,
mặc dù phải mua riêng và có thể đắt.
4. 'Nghịch' RAW.
Hầu hết các phần mềm xử lý ảnh RAW
đều có cả "tấn" thứ có thể thực hiện với hình chụp. Phía bên phải trên
giao diện phần mềm là các bảng công cụ để thực hiện các thao tác chỉnh
sửa cơ bản, như bù sáng hay chỉnh tông màu. Hãy điều khiển theo nhiều
cách khác nhau và xem các loại hiệu ứng thể hiện trên ảnh thế nào.
Khi đã xử lý ảnh xong, hãy chuyển về
định dạng JPEG nếu muốn tải lên các trình duyệt chia sẻ hình ảnh như
Flickr. Nên nhớ là đừng lưu lại các chỉnh sửa đã thực hiện trên file RAW
vì chúng sẽ thay đổi vĩnh viễn file RAW gốc. Hãy giữ file gốc lại.
5. Lưu ảnh RAW.
Phải sao lưu file RAW vào ổ cứng
ngoài hoặc DVD. Bản lưu sẽ luôn an toàn khi vì có thể trong tương lai
còn cần đến chúng. Hãy nghĩ định dạng file RAW như là phim âm bản 35mm,
khi cất và bảo quản đúng cách, vẫn có thể sử dụng lại nhiều lần.
Tác giả bài viết: Lê Phương
|
Xóa phông và khống chế độ nét. 30 phút làm chủ máy DSLR |
|
|
Xóa phông và khống chế độ nét
|
Có 3 yếu tố chính ảnh hưởng tới khả năng xoá phông:
|
Có một nguyên tắc như sau:
|
-
Hậu cảnh càng xa vật, xoá phông càng tốt và ngược lại - Khoảng cách (từ
máy tới chủ thể) càng gần, xoá phông càng tốt Nếu có thể, ta tiến sát
vật hay chụp một phần vật, đây là yếu tố “xoá” tốt nhất.
|
khoảng cách từ film (sensor) đến điểm giữa của ống kính.
|
Tiêu
cự xoá tốt nhất bình thường xếp theo thứ tự là
...135mm>100mm>85mm>50mm>35mm>24mm>… Có nghĩa 135mm
xóa tốt nhất (cho trường nét mỏng) và 24mm sẽ xóa "yếu" nhất (cho trường
nét sâu)
|
3- Khẩu độ(độ mở ống kính):
|
- Khẩu độ càng lớn (f=1.2, 1.4, 1.8, 2.0…) xoá phông càng tốt và ngược lại
|
-
Khẩu độ càng nhỏ (f=32, 22, 16, 11…) xoá phông càng kém do độ nét rất
sâu Nếu cùng khẩu độ, cùng tiêu cự thì lens fix xoá tốt hơn lenszoom rất
nhiều.
|
* Một chiếc zoom lens rất rẻ tiền như 18-55mm cũng hoàn toàn có thể xoá phông tốt nếu biết vận dụng những yếu tố trên đây:
|
- Zoom vào 55mm thay vì 18mm hay 24mm…
|
- Mở rộng nhất f=5.6 (vì lens này chỉ mở được 5.6 ở 55mm)
|
- Chọn khoảng cách chụp gần vật nhất
|
- Chọn hậu cảnh xa vật chụp nhất
|
* Xoá bằng khẩu độ là an toàn nhất, tránh rung
|
* Xoá bằng tiêu cự là xoá đẹp nhất với bohker tròn trịa ảnh nổi khối
|
* Xoá bằng khẩu độ kết hợp khoảng cách làm vật nổi bật trên hậu cảnh nhưng rất dễ mất nét vì khoảng rõ nét rất ngắn.
|
=============================================================
|
Làm chủ máy ảnh DSLR chỉ sau 30 phút
|
Với
giá thành ngày càng rẻ, các hãng ra đời liên tiếp nhiều Model DSLR với
giá thành không cao hơn so với dòng PnS là mấy. Do đó số người dùng DSLR
ngày càng nhiều. Thường tâm lí người mới cầm máy sẽ rất thiếu tự tin
khi chưa làm chủ được máy. Xin chia sẻ những kinh nghiệm làm chủ DSLR
chỉ sau 30 phút training ngắn ngủi. Điều đó tưởng chừng như hoang tưởng
nhưng lại hoàn toàn là sự thật.
|
Tuân thủ theo những lưu ý sau:
|
1- Chọn chế độ thích hợp trên đĩa chức năng:
|
Nên dùng P (lập trình tự động không đèn flash) trong thời gian đầu hoặc khi muốn chụp nhanh.
|
Ở chế độ P khác hoàn toàn với chế độ AUTO (full auto) vì AUTO không hiệu chỉnh được iso, cân bằng trắng...
|
Dùng chế độ A ( tự động tốc độ):
|
Ở chế độ này, khẩu độ được chọn thích hợp chủ đề chụp, tốc độ sẽ tự động theo nguồn sáng:
|
ví dụ: f= 11, 16 nếu chụp phong cảnh. f= 3.5, 4.5, 5.6 nếu chụp chân dung...
|
2- Hiệu chỉnh thích hợp độ nhạy sáng trên máy:
|
Đơn vị độ nhạy sáng trên máy ảnh là ISO~ASA, có các tham số: 50-100-200-400-800-1600-3200...
|
Với
trời nắng: chọn ISO 100 Với trời râm chọn ISO 200 Với thời tiết xấu,
trong bóng râm, trong cửa nhà: chọn ISO 400 Với phòng sáng, sân khấu có
ánh sáng tốt...: dùng ISO 800 hay 1600. Cảnh đêm ngoài trời, ánh sáng
yếu...: dùng ISO1600-3200
|
Theo dõi thông số tốc độ >>>Để đạt tốc độ an toàn theo lý thuyết là TỐC ĐỘ = TIÊU CỰ SỬ DỤNG
|
Ví dụ: Dùng 1 lens 85mm thì cần tốc độ an toàn là 1/85s ~ 1/60s trên máy.
|
Dùng 1 lens 35mm thì tốc độ an toàn là 1/35s ~ 1/30s trên máy
|
Dùng 1 lens 200mm thì tốc độ là 1/200s...
|
Với những ống kính chống rung hay những cách cầm máy thiện xạ, tốc độ lí thuyết chống rung thấp hơn 2-3 fstop.
|
3- Làm chủ chế độ đo sáng và bù trừ EV tốt để có những file hình đúng sáng:
|
Hình
cần được kiểm soát trên LCD máy chụp mới là chính xác. Quan sát bối
cảnh của ảnh chụp, nếu bối cảnh tối hơn chủ thể >>>>Dùng bù
trừ hay chế độ đo sáng điểm.
|
Nếu bối cảnh có chênh lệch tương phản
không đáng kể (cảnh ngoài trời, chủ thể là người gối cảnh cây cối, núi
non, nhà cửa...) thì không dùng bù trừ sáng mà để ở ngưỡng 0.
|
Những
tình huống ngược sáng hay chủ thể tối hơn hậu cảnh (vật sẫm trên nền
sáng - trắng) thì thay cho áp dụng bù +EV (cộng EV) ta thay bằng việc
bồi đèn flash (nếu có) sẽ hiệu quả hơn.
|
4- Chọn tư thế cầm máy chắc chắn, gọn gàng:
|
Nếu có chỗ dựa, điểm tì cần tranh thủ: tựa vào cây, tường nhà, góc bàn - ghế...để tư thế thêm vững chắc.
|
Cầm máy đúng tư thế, tay trái cầm đỡ trọng tâm máy (nơi tiếp xúc giữa máy và lens), tì sát máy vào trán.
|
Bấm 1/2 cò để máy canh nét xong và bấm tiếp để chụp: Không bấm giật cục 1 lần.
|
5- Bố cục ảnh gọn gàng, tự tin và làm chủ tình thế:
|
Luôn có bố cục ảnh gọn gàng, không thừa và thiếu.
|
Đặc biệt lưu ý đến hậu cảnh phía sau chủ thể.
|
Với các tình huống sự kiện nên làm chủ và đoán trước diễn biến để có vị trí đứng tốt.
|
Không bấm tràn lan gây tâm lý chán nản với những khung hình chưa ưng ý.
|
Chỉ nên chụp khi chủ động và khuôn hình đã được chọn đẹp nhất.
|
bị máy và dụng cụ đầy đủ, tránh những bất ngờ khi thiếu đồ dùng cũng là một yếu tố tâm lí tốt.
|
tin với thiết bị mình đang sử dụng:
|
Người
mới làm quen máy hay bị yếu tố tâm lí, hay cho là thiết bị của mình
chưa tốt nhưng thực ra vấn đề không nằm ở chỗ đó. Một chiếc ống kính rẻ
tiền như 18-55mm trong điều kiện bình thường hoàn toàn có thể cho ra
những tấm ảnh đẹp, ưng ý, không khác quá nhiều với những ống kính đắt
tiền.
|
Vấn đề vẫn chỉ là tâm lý
Theo xomnhiepanh.
|
|
Một ví dụ về độ sâu trường ảnh.
|
Theo Cambridgeincolour, DOF
phụ thuộc nhiều vào loại máy ảnh (kích cỡ phim hay cảm quang) và cách
thiết lập ống kính (khẩu độ, khoảng lấy nét). Khoảng lấy nét ở đây chính
là khoảng cách từ mặt phẳng chứa điểm cần lấy nét tới ống kính.
|
DOF và vùng trung gian chứa các chấm mờ (circle of confusion). Ảnh: Cambridgeincolour.
|
|
Một ví dụ về bokeh trên ống kính Canon 85 mm f/1.8. Ảnh: Wiki.
|
Sự thực, mỗi ống kính chỉ có khả năng cho ảnh nét nhất tại một khoảng
cách nhất định, sau đó, độ nét giảm dần về 2 biên. Tuy nhiên, hiện tượng
mờ dần này khá nhỏ và có thể coi như "sắc nét" trong mắt người quan
sát. Độ sâu trường ảnh cũng không thay đổi đột ngột từ rất nét đến mờ mà
luôn có một vùng trung gian chuyển đổi. Các điểm thuộc vùng chuyển đổi
này xuất hiện trên ảnh dưới dạng chấm tròn mà mắt người có thể nhận ra
gọi là "Circle of confusion". Một điểm thuộc vật không còn được coi là
nét trên ảnh nếu ta nhận ra đó là một chấm tròn có kích thước lớn hơn
0,01 inch ở khoảng cách 30,5 cm khi nhìn bản in cỡ 20 x 25 cm. Chấm tròn
có kích thước nhỏ hơn 0,01 inch thường được coi là điểm tương đối nét.
Lưu ý
rằng, độ sâu trường ảnh chỉ tác động đến kích thước tối đa của vòng tròn
mờ mà không diễn tả được hiện tượng gì sẽ xảy ra với những vùng thuộc
vật nằm ngoài khoảng lấy nét. Khu vực mờ này lần đầu tiên có tên gọi
chính thức là "bokeh" vào năm 1997 trên tạp chí Kỹ Thuật Nhiếp Ảnh số
tháng 3, 4. Nguồn gốc của từ xuất phát từ phiên âm "bo-ke" trong tiếng
Nhật nghĩa là mơ hồ, mù mịt.
|
|
Độ sâu trường ảnh (DOF) trong các trường hợp chỉnh khẩu độ của cùng một ống kính. Ảnh: Nikonians.
|
Hai bức ảnh chụp cùng một vùng không gian với độ sâu giống hệt nhau có
thể cho bokeh khác hẳn nhau do hình dạng các lá khẩu ống kính quyết
định. Trên thực tế, các chấm mờ "Circle of confusion" không thực sự là
một hình tròn hoàn hảo mà là một đa giác đều có từ 5 đến 8 cạnh hoặc
thậm chí lớn hơn, tương ứng với số lá thép đặt chéo lên nhau trong lòng
ống kính. Số cạnh càng nhiều, chấm mờ càng đạt trạng thái gần tròn. Khi
khẩu độ ống kính mở hết cỡ, các lá thép xoay hết ra phía rìa ống kính và
các chấm đạt trạng thái tròn hoàn hảo.
Kiểm soát độ sâu trường ảnh
Độ mở và
khoảng lấy nét là hai yếu tố quyết định độ mờ của hậu cảnh, tức là kích
thước của chấm mờ ngoài vùng lấy nét xuất hiện trên cảm biến máy ảnh.
|
Độ
mở càng lớn (chỉ số F-stop càng nhỏ) và khoảng lấy nét càng gần thì
vùng ảnh nét (DOF) càng ngắn hay càng nông. Khi DOF nông đến mức khoảng
cách từ điểm nét gần nhất và xa nhất chỉ còn khoảng vài milimet, rất hay
xảy ra hiện tượng mờ ảnh (hay out nét) do sự thay đổi vị trí tương quan
giữa máy ảnh và đối tượng cần lấy nét, dù là nhỏ nhất. Bạn có thể bắt
gặp điều này khi chụp ảnh macro trong điều kiện thiếu sáng, bắt buộc
phải mở khẩu lớn để tránh nhòe do rung lắc. Chẳng hạn, khi sử dụng ống
Nikon 105mm f/2.8 AF Micro lắp lên thân máy crop như D300, tại khoảng
cách lấy nét 0,4m thiết lập khẩu độ f/4, DOF chỉ mỏng không quá 2mm -
bất kỳ sự dịch chuyển nào của thân máy trong quá trình chụp cũng khiến
bức ảnh thu được bị mờ. Bạn có thể hạn chế nhược điểm này bằng cách tăng
khoảng cách lấy nét hoặc khép khẩu độ sâu thêm vài stop.
Ống kính góc rộng và tele
|
Trong đa số trường hợp, hậu cảnh có xu hướng mờ đi khi tiêu cự của ống kính tăng lên. Ảnh: Flickr.
|
Nếu vật
thể chiếm cùng một diện tích trên kính ngắm máy ảnh, nghĩa là hệ số
phóng đại là như nhau đối với các ống kính góc rộng và tele thì độ sâu
trường ảnh đối với các ống kính này là tương đồng. Nhìn chung, trong đa
số trường hợp, hậu cảnh có xu hướng mờ đi khi tiêu cự của ống kính tăng
lên. Bảng sau sẽ cho thấy độ sâu trường ảnh tại thiết lập f/4,0 trên
thân máy Canon EOS 30D (crop 1.6X).
Tiêu cự (mm)
|
Khoảng cách lấy nét (m)
|
Độ sâu trường ảnh (m)
|
10
|
0,5
|
0,482
|
20
|
1
|
0,421
|
50
|
2,5
|
0,406
|
100
|
5
|
0,404
|
200
|
10
|
0,404
|
400
|
20
|
0,404
|
Ngay cả
khi tổng độ sâu trường ảnh là cố định thì sự phân phối vùng ảnh tương
đối nét phía trước và sau khoảng lấy nét chính vẫn thay đổi theo độ dài
tiêu cự.
Ví dụ:
|
|
Phân phối độ sâu trường ảnh
|
Tiêu cự (mm)
|
Trước
|
Sau
|
10
|
70,2%
|
29,8 %
|
20
|
60,1 %
|
39,9 %
|
50
|
54,0 %
|
46,0 %
|
100
|
52,0 %
|
48,0 %
|
200
|
51,0 %
|
49,0 %
|
400
|
50,5 %
|
49,5 %
|
Chính sự
phân bố độ nét không đều làm tăng thêm sự phức tạp của khái niệm DOF,
vốn chỉ giúp người ta mường tượng ra tổng độ sâu vùng nét trong một bức
ảnh. Bạn không cần quan tâm nhiều đến các số liệu trong bảng, tuy nhiên,
cần nhớ trong đầu một quy tắc tương đối đơn giản: với cùng một giá trị
khẩu độ, khi càng tăng tiêu cự lên cao, vùng ảnh nét càng thu hẹp. Ngoài
ra, cũng cần lưu ý, các ống kính có tiêu cự càng nhỏ (tức góc càng
rộng) thì vùng ảnh tương đối nét phía sau điểm cần lấy nét càng sâu, rất
thích hợp trong nhiếp ảnh đời thường và phong cảnh. Với ống kính tele
thì điều này ngược lại, vùng hậu cảnh phía sau đối tượng lấy nét trở nên
cực kỳ mờ do sự phân bố nét tại đây giảm đi.
Độ sâu trường ảnh và độ sâu tiêu cự
|
Độ sâu tiêu cự khi chỉnh khẩu độ ống kính. Ảnh: Cambridgeincolour.
|
Độ sâu
tiêu cự (Depth of focus hay Focus spread) là một khái niệm có liên quan
đến kích thước các chấm mờ. Khi vật thể đã được lấy nét, cảm biến hay
phim vẫn có thể di chuyển trong một khoảng nhỏ cỡ millimet mà ảnh thu
được của vật vẫn nét. Khoảng cách này được gọi là độ sâu tiêu cự. Khi
khẩu càng khép chặt, các chùm sáng đến từ điểm và đi qua ống kính càng
có xu hướng bị thu hẹp. Kết quả là kích thước các chấm mờ nhỏ lại và cảm
biến có thể di chuyển một khoảng khá dài mà ảnh vẫn tạm coi là sắc nét.
Khi đó, độ sâu tiêu cự rộng hơn. Trường hợp ngược lại, khẩu mở to sẽ
khiến độ sâu tiêu cự hẹp đi.
|
Cần phân biệt khái niệm này với
khái niệm độ sâu trường ảnh để tránh nhầm lẫn khi đọc các tài liệu sử
dụng ống kính và thiết bị nhiếp ảnh.
Một số chú ý khác
Phần lớn
ống kính đều nét nhất ở đoạn giữa độ mở của nó, thường trong khoảng f/8
hoặc f/11. Việc giảm khẩu độ tới tối đa có thể khiến ảnh đạt độ sâu lý
tưởng nhưng đòi hỏi thời gian phơi sáng và ISO cao. Ngoài ra, khẩu độ
khép quá hẹp có thể làm ảnh hơi mờ do hiện tượng nhiễu xạ. Điều này cũng
lý giải tại sao kích thước lỗ sáng trong máy ảnh pinhole không thể chế
tạo nhỏ hơn cỡ milimet.
Các tác
phẩm macro và chân dung thường đòi hỏi sự hoàn hảo trong bố cục hậu
cảnh. Hậu cảnh quá lộn xộn làm giảm độ tập trung của ảnh vào đối tượng
chính và gây mất hiệu quả "xóa phông" trên ống kính. Cần kiểm soát tốt
độ sâu trường ảnh để tránh bị out nét hay thu được một mớ lổn nhổn đằng
sau như trên các máy compact cảm biến nhỏ.
Trần Hạ - sohoa.net
|
|
Giới thiệu về cân bằng trắng |
|
|
Khi
chụp ảnh bằng chế độ chỉnh tay, một trong số những chức năng của máy
ảnh mà bạn có thể tinh chỉnh là cân bằng trắng. Nếu bạn đã từng phát
hiện màu sắc trong các bức ảnh của mình có vẻ hơi sai lệch, thì đó có
thể là do cân bằng trắng chưa được chỉnh đúng.
Nhiệt độ Màu
Các nguồn ánh sáng khác
nhau sẽ đem đến màu sắc hay nhiệt độ khác nhau. Ví dụ, ảnh chụp dưới
ánh đèn huỳnh quang sẽ có ánh màu lục trong khi màu của các bóng đèn
trong nhà bạn (gọi là đèn dây tóc) sẽ có ánh màu vàng. Mắt của chúng ta
có thể ngay lập tức phân biệt được các nguồn ánh sáng khác nhau và
thường xuyên tự điều tiết để đảm bảo sự đồng nhất của các màu sắc mà
chúng ta nhìn thấy. Ví dụ, nếu bạn nhìn vào làn da của mình dưới ánh
sáng mặt trời và trong phòng kín dưới ánh đèn huỳnh quang, màu da của
bạn vẫn giống nhau. Tuy nhiên, máy ảnh không thông minh như mắt của
chúng ta - một bức ảnh được chụp trong nhà với cùng nguồn sáng huỳnh
quang đó sẽ khiến da bạn trông có vẻ màu lục, trừ khi bạn giúp máy ảnh
hiểu thông tin được thu vào cảm biến.
Màu được ghi chép theo
thang độ Kelvin (độ K) và có phạm vi từ 10.000K của màu bầu trời trong
xanh đến 2.500K của màu hoàng hôn. Màu thứ nhất được xem như rất lạnh,
trong khi màu thứ hai được xem như rất nóng. Trong cuốn sách điện tử
Photo Nuts & Bolts của mình, tác giả Darren Rowse đã đưa ra nhận
định thú vị về màu sắc: “Màu sắc không thật sự tồn tại. Trên thực tế, nó
chỉ là tưởng tượng nhân tạo của bộ não khi nổ lực diễn giải thế giới mà
mắt chúng ta nhìn thấy”. Cho dù những chiếc máy ảnh có tinh vi và sử
dụng công nghệ cao đến mức nào, thì chúng cũng sẽ không thông minh bằng
bộ não của bạn.
Cloudy (Nhiều mây)
Những ngày nhiều mây
cho ánh sáng lạnh và có thể hơi ngả sang màu xanh. Thiết lập cân bằng
trắng là “Cloudy” sẽ giúp sưởi ấm bức ảnh với một nhiệt độ màu nóng hơn.
Đôi khi, tôi thích sử dụng thiết lập này ngay cả khi trời không có
nhiều mây để tăng thêm vẻ ấm áp cho bức ảnh.
Daylight (Ánh nắng)
Những ngày nắng với bầu
tời trong xanh mang lại ánh sáng và nhiệt độ màu nóng. Thiết lập cân
bằng trắng này sẽ tính đến điều đó và làm mát ánh sáng để bức ảnh trông
giống như mắt chúng ta nhìn thấy.
Fluorescent (Huỳnh quang)
Ánh sáng huỳnh quang
rất lạnh và có ánh màu lục. Đây là thiết lập quan trọng sử dụng khi chụp
dưới ánh đèn huỳnh quang nhằm làm ấm hơn cho màu sắc của bức ảnh.
Tungsten (Đèn dây tóc)
Các bóng đèn tròn trong
nhà bạn toả ra thứ ánh sáng gọi là ánh sáng đốt nóng. Theo nhiệt độ
màu, đây là ánh sáng nóng. Sử dụng thiết lập cân bằng trắng này sẽ làm
mát ánh sáng xuống ở nhiệt độ bình thường.
Shade (Bóng râm)
Thiết lập này khá giống
thiết lập “Cloudy” (nhiều mây) và sẽ sưởi ấm ánh sáng màu lạnh không tự
nhiên do bóng râm tạo ra. Bạn có thể kiểm chứng điều này với nhiệt độ
màu của bóng râm trên thang Kelvin.
Flash (Đèn flash)
Khi sử dụng nguồn sáng
bổ sung từ đèn flash tích hợp hoặc đèn flash ngoại vi, vô tình nguồn
sáng này đã làm tăng độ lạnh của ánh sáng. Khi đó, bạn có thể sử dụng
thiết lập cân bằng trắng để trả lại vẻ ấm áp cho bức ảnh.
Nguyên lý Hoạt động của Cân bằng Trắng
Khi chụp ảnh dưới những
ánh sáng có nhiệt độ khác nhau, bạn có thể cho máy ảnh biết nhiệt độ
màu mà bạn mong muốn bằng cách chọn kịch bản cân bằng trắng thích hợp từ
menu chỉnh tay. Cân bằng trắng là quá trình loại bỏ các ánh màu không
có thật khỏi các bức ảnh và quá trình này có thể được thực hiện ngay
trong máy ảnh hoặc trên phần mềm biên tập ảnh. Khi thiết lập cân bằng
trắng cho máy ảnh bằng chế độ chỉnh tay, chúng ta cho máy ảnh biết màu
nào sẽ được xem là màu trắng trong bức ảnh. Từ đó, máy ảnh có thể tính
toán nhiệt độ màu hiện tại và điều chỉnh tất cả màu sắc theo màu được
xem là trắng trong khung cảnh. Một số nhiếp ảnh gia sử dụng các phụ kiện
như thẻ nhớ nơi mà đối tượng cần chụp có thể xuất hiện trong ảnh chụp
thử. Bạn có thể sử dụng thẻ màu với thiết lập cân bằng trắng tuỳ chọn
của máy ảnh DSLR, bằng cách chụp ảnh tấm thẻ để thiết lập cân bằng trắng
thủ công cho bức ảnh của mình. Một cách khác, bạn có thể sử dụng phần
mềm kiểm soát chính xác nhiệt độ màu trong bức ảnh sau khi chụp bằng
cách nhấp chuột lên các màu trên tấm thẻ để so sánh.
Chụp ảnh theo định dạng RAW (ảnh thô)
Một trong nhiều lợi
điểm của việc chụp ảnh theo định dạng RAW là nếu bạn muốn hiệu chỉnh
hoặc thử nghiệm các nhiệt độ màu, bạn có thể sử dụng một chương trình
như Lightroom hoặc Photoshop để thay đổi các giá trị này ngay cả sau khi
bức ảnh đã được chụp. Ví dụ, trong Light-room, bạn dễ dàng thử nghiệm
các nhiệt độ màu và thiết lập cân bằng trắng khác bằng menu sổ xuống và
một thanh trượt.
Biết cách thiết lập cân
bằng trắng là một phần quan trọng trong việc học cách chụp ảnh bằng chế
độ chỉnh tay và kiểm soát tốt hơn ảnh chụp của mình. Tất cả các máy ảnh
Canon đều được trang bị chế độ cân bằng trắng tự động (AWB) rất hữu
hiệu có thể tính toán chính xác nhiệt độ màu. Các cảm biến khác nhau,
CMOS hoặc CCD, thực hiện việc này khác nhau thông qua các phương trình
toán học và khoa học rất phức tạp. Hiểu được màu sắc của ánh sáng xung
quanh sẽ tạo thuận lợi cho bạn khi muốn kiểm soát nhiều hơn hoặc sáng
tạo hơn trong việc chụp ảnh kỹ thuật số.
Mẹo nhỏ: Nét Nghệ Thuật
Ngay cả khi mới bắt đầu
cầm máy, bạn vẫn có thể tìm được nét nghệ thuật từ việc thử nghiệm các
thiết lập khác nhau ngoài những kịch bản được đề nghị. Ví dụ, chụp ảnh
một cậu bé trong một ngày nắng đẹp với thiết lập “Shade” (bóng râm) để
tăng thêm vẻ ấm áp có thể đem lại cho bức ảnh cảm xúc của mùa thu và
buổi hoàng hôn. Ngoài ra, hãy đọc phần hướng dẫn chụp ảnh theo định dạng
RAW của chúng tôi để thu được nhiều hiệu quả hơn nữa từ cân bằng trắng.
Bài viết của Elizabeth Halford
Glacier Cake Studios - Hocvieneos
|
Nguyên lý và ứng dụng của ống kính tilt-shift |
|
|
|
Ảnh chụp bằng máy Canon 5D, ống kính TS-E 24mm f/3.5L.
|
|
Đôi
khi bạn xem một bức hình rất bình thường, nhưng nếu thử chụp trong một
bối cảnh tương tự thì lại cảm thấy bối cảnh trong hình bị nghiêng ngả,
hoặc bạn không điều khiển được khu vực nét/mờ giống như ảnh mẫu. Ban đầu
bạn sẽ nghĩ có thể tác giả đã chỉnh bằng Photoshop, nhưng thực tế,
trong nhiều trường hợp, những bức ảnh có hiệu ứng đặc biệt là do thiết
kế của ống kính tilt-shift tạo ra. Các chính sửa hậu kỳ có thể giả lập
tương tự, nhưng chất lượng hình ít nhiều bị ảnh hưởng.
Từ thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, nhà khoa học người Đức Scheimpflug đã đưa ra nguyên lý Scheimpflug và
được áp dụng rộng rãi cho các máy view camera, và sau đó là medium
format rồi tới các ống kính của máy SLR, DSLR, giúp chụp được một số bối
cảnh mà có thể coi là bất khả thi đối với các ống kính thông thường.
Các ống kính tilt-shift đã thừa hưởng nguyên lý đó từ các máy view
camera.
Nói một cách đơn giản:
|
Hình trên chụp với ống tilt-shift, hình dưới chụp thông thường.
|
Khi
dịch chuyển mặt phẳng ống kính tịnh tiến lên xuống hoặc sang hai bên
(shift), không còn chính diện với cảm quang (hoặc phim) thì phối cảnh sẽ
thay đổi. Điều này rất có lợi khi chụp nhà cửa, nội thất, giúp không bị
nghiêng ngả méo mó.
Hình ở trên với phối cảnh chuẩn, rõ ràng là trông bắt mắt hơn hình ở dưới với cách chụp thông thường.
Khi
xoay nghiêng ống kính (tilt) sao cho không còn song song với mặt phẳng
của cảm quang (hoặc phim) thì khu vực ảnh rõ cũng sẽ không còn song song
với máy ảnh nữa, mà nằm nghiêng và có dạng hình chêm (khu vực màu xanh
dương ở hình minh họa 3 ở trên) và như vậy có khả năng lấy nét được các
chủ thể từ gần thậm chí tới vô cực mà không cần phải đóng khẩu thật nhỏ.
Hoặc lựa chọn khu vực nét khá nhỏ không khi các khu vực khác lại mờ
nhòe một cách rất lạ.
|
Hình chụp giả lập thu nhỏ bằng ống titl-shift.
|
Ứng dụng chính của ống kính tilt-shift là chụp kiến trúc, nội thất và chụp nét sâu. Một vài ứng dụng khác là:
-
Giả lập hình thu nhỏ (tuy chụp cảnh tự nhiên nhưng có cảm giác như mọi
vật nhỏ như trong sa bàn, cũng là do khả năng lấy nét chọn lọc đặc biệt
của tilt).
- Chụp gương phản chiếu nhưng không hề thấy máy ảnh trong đó (shift).
- Chụp panorama nhưng không phải xoay chuyển máy ảnh (bấm nhiều kiểu với ống kính shift)...
|
Chụp với ống tilt-shift – nét từ gần tới xa.
|
Những
máy view camera và technical camera được thiết kế đặc biệt cho phép
xoay chuyển dễ dàng vị trí ống kính (movement) mà không cần các ống kính
chuyên biệt. Tuy nhiên với cấu tạo cố định, các máy SLR, DSLR cần phải
có một vài ống kính chuyên tilt-shift (perspective control) để làm được
điều này.
Vì
các ứng dụng nói trên mà các ống kính tilt-shift tuy có giá vài nghìn
USD, thao tác phức tạp, nhưng vẫn nằm trong danh mục thiết yếu của các
nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp cũng như những tay máy tài tử muốn có những
tấm hình đẹp.
Nguyễn Nhật Thanh - sohoa
|
Cảm biến 1.000 Megapixel nặng hơn 2 tấn |
|
|
|
Cảm biến ảnh trên tàu Gaia có độ phân giải tới 1.000 Megapixel. Ảnh: Petapixel.
|
Trong
năm 2013, cơ quan hàng không vũ trụ châu Âu (European Space Agency
-ESA) sẽ ra mắt tàu vũ trụ Gaia để thực hiện các sứ mệnh khám phá và vẽ
bản đồ các hành tinh khác trong không gian. Tàu vũ trụ này dự kiến sẽ
phát hiện và chụp ảnh được khoảng 15.000 hành tinh.
Cảm
biến ảnh được sử dụng bên trong Gaia có độ phân giải 1 Gigapixel là sự
kết hợp của khoảng 106 cảm biến CCD riêng biệt đặt liền kề. Với cảm biến
này, người chụp có thể đo được kích thước chính xác của một sợi tóc từ cách xa khoảng gần 1.000 km và từ mặt đất có thể phát hiện được cả hình ảnh một đồng xu trên mặt trăng.
|
Các nhà khoa học đang lắp đặt cảm biến. Ảnh: Petapixel.
|
Theo thông báo của ESA, cảm biến cùng bộ xử lý hình ảnh của nó có tổng trọng lượng lên tới 2.030 kg.
Trong
suốt quãng thời gian hoạt động của mình trong 5 năm (từ năm 2013 đến
2018), tàu vũ trụ Gaia dự kiến sẽ chụp được trung bình mỗi ngày 250
chuẩn tinh, 30 sao lùn nâu, 10 ngôi sao với hành tinh quay xung quanh và
10 ngôi sao nổ tung trong các thiên hà khác. Công việc của Gaia là vẽ
một bản đồ ba chiều trong không gian (tương tự Google Street View đối
với Trái đất).
Hoài Anh - vnexpress
|
Xóa phông và khống chế độ nét. 30 phút làm chủ máy DSLR |
|
|
Xóa phông và khống chế độ nét
|
Có 3 yếu tố chính ảnh hưởng tới khả năng xoá phông:
|
Có một nguyên tắc như sau:
|
-
Hậu cảnh càng xa vật, xoá phông càng tốt và ngược lại - Khoảng cách (từ
máy tới chủ thể) càng gần, xoá phông càng tốt Nếu có thể, ta tiến sát
vật hay chụp một phần vật, đây là yếu tố “xoá” tốt nhất.
|
khoảng cách từ film (sensor) đến điểm giữa của ống kính.
|
Tiêu
cự xoá tốt nhất bình thường xếp theo thứ tự là
...135mm>100mm>85mm>50mm>35mm>24mm>… Có nghĩa 135mm
xóa tốt nhất (cho trường nét mỏng) và 24mm sẽ xóa "yếu" nhất (cho trường
nét sâu)
|
3- Khẩu độ(độ mở ống kính):
|
- Khẩu độ càng lớn (f=1.2, 1.4, 1.8, 2.0…) xoá phông càng tốt và ngược lại
|
-
Khẩu độ càng nhỏ (f=32, 22, 16, 11…) xoá phông càng kém do độ nét rất
sâu Nếu cùng khẩu độ, cùng tiêu cự thì lens fix xoá tốt hơn lenszoom rất
nhiều.
|
* Một chiếc zoom lens rất rẻ tiền như 18-55mm cũng hoàn toàn có thể xoá phông tốt nếu biết vận dụng những yếu tố trên đây:
|
- Zoom vào 55mm thay vì 18mm hay 24mm…
|
- Mở rộng nhất f=5.6 (vì lens này chỉ mở được 5.6 ở 55mm)
|
- Chọn khoảng cách chụp gần vật nhất
|
- Chọn hậu cảnh xa vật chụp nhất
|
* Xoá bằng khẩu độ là an toàn nhất, tránh rung
|
* Xoá bằng tiêu cự là xoá đẹp nhất với bohker tròn trịa ảnh nổi khối
|
* Xoá bằng khẩu độ kết hợp khoảng cách làm vật nổi bật trên hậu cảnh nhưng rất dễ mất nét vì khoảng rõ nét rất ngắn.
|
=============================================================
|
Làm chủ máy ảnh DSLR chỉ sau 30 phút
|
Với
giá thành ngày càng rẻ, các hãng ra đời liên tiếp nhiều Model DSLR với
giá thành không cao hơn so với dòng PnS là mấy. Do đó số người dùng DSLR
ngày càng nhiều. Thường tâm lí người mới cầm máy sẽ rất thiếu tự tin
khi chưa làm chủ được máy. Xin chia sẻ những kinh nghiệm làm chủ DSLR
chỉ sau 30 phút training ngắn ngủi. Điều đó tưởng chừng như hoang tưởng
nhưng lại hoàn toàn là sự thật.
|
Tuân thủ theo những lưu ý sau:
|
1- Chọn chế độ thích hợp trên đĩa chức năng:
|
Nên dùng P (lập trình tự động không đèn flash) trong thời gian đầu hoặc khi muốn chụp nhanh.
|
Ở chế độ P khác hoàn toàn với chế độ AUTO (full auto) vì AUTO không hiệu chỉnh được iso, cân bằng trắng...
|
Dùng chế độ A ( tự động tốc độ):
|
Ở chế độ này, khẩu độ được chọn thích hợp chủ đề chụp, tốc độ sẽ tự động theo nguồn sáng:
|
ví dụ: f= 11, 16 nếu chụp phong cảnh. f= 3.5, 4.5, 5.6 nếu chụp chân dung...
|
2- Hiệu chỉnh thích hợp độ nhạy sáng trên máy:
|
Đơn vị độ nhạy sáng trên máy ảnh là ISO~ASA, có các tham số: 50-100-200-400-800-1600-3200...
|
Với
trời nắng: chọn ISO 100 Với trời râm chọn ISO 200 Với thời tiết xấu,
trong bóng râm, trong cửa nhà: chọn ISO 400 Với phòng sáng, sân khấu có
ánh sáng tốt...: dùng ISO 800 hay 1600. Cảnh đêm ngoài trời, ánh sáng
yếu...: dùng ISO1600-3200
|
Theo dõi thông số tốc độ >>>Để đạt tốc độ an toàn theo lý thuyết là TỐC ĐỘ = TIÊU CỰ SỬ DỤNG
|
Ví dụ: Dùng 1 lens 85mm thì cần tốc độ an toàn là 1/85s ~ 1/60s trên máy.
|
Dùng 1 lens 35mm thì tốc độ an toàn là 1/35s ~ 1/30s trên máy
|
Dùng 1 lens 200mm thì tốc độ là 1/200s...
|
Với những ống kính chống rung hay những cách cầm máy thiện xạ, tốc độ lí thuyết chống rung thấp hơn 2-3 fstop.
|
3- Làm chủ chế độ đo sáng và bù trừ EV tốt để có những file hình đúng sáng:
|
Hình
cần được kiểm soát trên LCD máy chụp mới là chính xác. Quan sát bối
cảnh của ảnh chụp, nếu bối cảnh tối hơn chủ thể >>>>Dùng bù
trừ hay chế độ đo sáng điểm.
|
Nếu bối cảnh có chênh lệch tương phản
không đáng kể (cảnh ngoài trời, chủ thể là người gối cảnh cây cối, núi
non, nhà cửa...) thì không dùng bù trừ sáng mà để ở ngưỡng 0.
|
Những
tình huống ngược sáng hay chủ thể tối hơn hậu cảnh (vật sẫm trên nền
sáng - trắng) thì thay cho áp dụng bù +EV (cộng EV) ta thay bằng việc
bồi đèn flash (nếu có) sẽ hiệu quả hơn.
|
4- Chọn tư thế cầm máy chắc chắn, gọn gàng:
|
Nếu có chỗ dựa, điểm tì cần tranh thủ: tựa vào cây, tường nhà, góc bàn - ghế...để tư thế thêm vững chắc.
|
Cầm máy đúng tư thế, tay trái cầm đỡ trọng tâm máy (nơi tiếp xúc giữa máy và lens), tì sát máy vào trán.
|
Bấm 1/2 cò để máy canh nét xong và bấm tiếp để chụp: Không bấm giật cục 1 lần.
|
5- Bố cục ảnh gọn gàng, tự tin và làm chủ tình thế:
|
Luôn có bố cục ảnh gọn gàng, không thừa và thiếu.
|
Đặc biệt lưu ý đến hậu cảnh phía sau chủ thể.
|
Với các tình huống sự kiện nên làm chủ và đoán trước diễn biến để có vị trí đứng tốt.
|
Không bấm tràn lan gây tâm lý chán nản với những khung hình chưa ưng ý.
|
Chỉ nên chụp khi chủ động và khuôn hình đã được chọn đẹp nhất.
|
bị máy và dụng cụ đầy đủ, tránh những bất ngờ khi thiếu đồ dùng cũng là một yếu tố tâm lí tốt.
|
tin với thiết bị mình đang sử dụng:
|
Người
mới làm quen máy hay bị yếu tố tâm lí, hay cho là thiết bị của mình
chưa tốt nhưng thực ra vấn đề không nằm ở chỗ đó. Một chiếc ống kính rẻ
tiền như 18-55mm trong điều kiện bình thường hoàn toàn có thể cho ra
những tấm ảnh đẹp, ưng ý, không khác quá nhiều với những ống kính đắt
tiền.
|
Vấn đề vẫn chỉ là tâm lý
Theo xomnhiepanh.
|
Làm thế nào để chụp ảnh phong cảnh đẹp? |
|
|
1. Tăng tối đa độ sâu trường ảnh
Đôi khi bạn muốn có thêm một
chút sáng tạo hơn với độ sâu trường ảnh (Depth of Field -DOF) trong các
bức ảnh chụp phong cảnh của bạn – cách giải quyết thông thường là bạn sẽ
cố gắng sao cho có càng nhiều thứ trong bức ảnh của bạn được lấy nét
thì càng tốt. Cách đơn giản nhất để làm điều này là lựa chọn một thiết
lập độ mở ống kính nhỏ (chọn con số lớn, ví dụ f/16, để chọn khẩu độ
nhỏ), bởi vì khẩu độ càng nhỏ thì độ sâu trường ảnh càng lớn. (xem thêm Bí quyết căn chỉnh các thông số máy ảnh ).
Tuy nhiên, hãy nhớ rằng khẩu độ nhỏ hơn có nghĩa là
ít ánh sáng hơn tới được bộ cảm biến của máy ảnh, do đó bạn cần bù sáng
cho ảnh bằng cách tăng giá trị ISO hoặc kéo dài tốc độ màn trập, hoặc cả
hai.
PS : Tất nhiên có những khi bạn có thể nhận được một
số kết quả tuyệt vời với một DOF rất nông trong một bức ảnh phong cảnh.
Hãy xem hiệu quả ánh sáng trong bức ảnh dưới đây.
Ảnh: Automatt
2. Sử dụng Tripod
Để có một tốc độ màn trập lâu hơn khi bạn cần bù
sáng cho khẩu độ nhỏ, bạn sẽ cần phải tìm cách để đảm bảo máy ảnh của
bạn là hoàn toàn yên tĩnh trong suốt thời gian phơi sáng. Trong thực tế,
ngay cả khi bạn có thể chụp ở tốc độ màn trập nhanh, việc sử dụng chân
máy tripod luôn có lợi cho bạn. Ngoài ra, bạn nên xem xét sử dụng dây
bấm hoặc thiết bị điều khiển không dây để thực hiện bấm máy từ xa, tăng
thêm độ ổn định cho máy.
Ảnh: hkvam
3. Hãy tìm một điểm nhấn cho ảnh
Tất cả các bức ảnh đều cần có một điểm thu hút người
xem và ảnh phong cảnh cũng vậy. Những ảnh phong cảnh mà không có điểm
nhấn thì trông sẽ rất trống rỗng, và sẽ khiến người xem ảnh của bạn chỉ
xem lướt qua ảnh mà không dừng lại, nghĩa là không có gì thu hút để họ
xem kỹ bức ảnh của bạn.
Bạn có thể chọn điểm nhấn cho ảnh từ phong cảnh xung
quanh, như một tòa nhà, một cái cây, một tảng đá, những gì mà bạn muốn
nhấn mạnh trong bức ảnh của bạn.
Ngoài ra, bạn cũng cần lưu ý xem nên đặt đối tượng
lấy nét đó của bạn ở đâu trong ảnh. Nên sử dụng nguyên tắc 1/3 để xác
định khuôn hình.
Ảnh: Darren Rowse
4. Suy nghĩ về tiền cảnh
Một yếu tố có thể giúp tạo sự khác biệt cho bức ảnh
của bạn so với những bức ảnh khác, đó là tiền cảnh. Hãy suy nghĩ thật kỹ
về tiền cảnh cho bức ảnh của bạn và đặt những điểm thú vị của tiền cảnh
vào trong bức ảnh của bạn. Khi làm điều này, bạn sẽ cho người xem thấy
một con đường đi vào bức ảnh của bạn, cũng như tạo một cảm giác có chiều
sâu cho bức ảnh.
Ảnh: OneEighteen
5. Hãy để ý đến bầu trời
Một yếu tố quan trọng khác cần xem xét trong ảnh phong cảnh, đó là bầu trời.
Hầu hết các ảnh phong cảnh sẽ có một tiền cảnh hoặc
một bầu trời chiếm lĩnh phần lớn bức ảnh. Nếu bức ảnh phong cảnh của bạn
không có bầu trời hoặc tiền cảnh đẹp thì trông sẽ rất tẻ nhạt.
Nếu bầu trời nhạt nhẽo không có gì nổi bật, hãy đừng
để nó choán chỗ quá nhiều trong bức ảnh của bạn. Hãy đặt đường chân
trời ở phần 1/3 phía trên bức ảnh, tuy nhiên bạn cũng cần chắc chắn là
tiền cảnh của bạn có gì đó thú vị. Nhưng nếu bầu trời có những màu sắc
và những đám mây hình dáng độc đáo, hãy để nó lấp lánh trong ảnh bằng
cách đặt đường chân trời xuống thấp hơn.
Bạn cũng nên xem xét việc tăng cường vẻ đẹp của bầu
trời bằng phần mềm xử lý ảnh, hoặc sử dụng các kính lọc, ví dụ như kính
lọc polarizing filter để tăng thêm màu sắc và độ tương phản cho ảnh.
Ảnh: Christopher Crawford
6. Chụp các đường thẳng
Một trong những câu hỏi mà bạn hãy luôn tự hỏi mình
khi chụp ảnh phong cảnh, đó là "mình sẽ làm thế nào để thu hút người xem
đối với bức ảnh này?"
Có nhiều cách để trả lời câu hỏi này (nhấn mạnh vào
tiền cảnh hoặc bầu trời chẳng hạn), trong đó một trong những cách tốt
nhất là cho người xem thấy những đường kẻ, những nét thẳng để dẫn họ vào
trong bức ảnh.
Các đường thẳng, đường kẻ sẽ cho bức ảnh có chiều
sâu, có bề rộng và có một điểm thú vị hấp dẫn mắt người xem và giúp mang
lại những đường nét sáng tạo cho bức ảnh của bạn.
Ảnh: hkvam
7. Chụp chuyển động
Hầu hết mọi người khi nghĩ về ảnh phong cảnh đều
nghĩ rằng chúng rất yên tĩnh, thanh bình và thụ động, tuy nhiên các cảnh
quan thiên nhiên hiếm khi yên tĩnh hoàn toàn và việc truyền đạt sự
chuyển động này vào trong ảnh sẽ giúp tăng thêm sự thú vị, khơi dậy tâm
trạng cho người xem và tạo điểm nhấn thu hút người xem.
Các ví dụ về chuyển động: gió trên cây, sóng trên
bãi biển, dòng nước chảy qua một thác nước, chim bay trên đầu, những đám
mây di chuyển…
Chụp chuyển động thường đồng nghĩa với việc bạn phải
để tốc độ màn trập lâu hơn (đôi khi tới một vài giây). Tất nhiên điều
này có nghĩa là ánh sáng sẽ đánh vào cảm biến nhiều hơn và bạn sẽ cần
phải giảm khẩu độ nhỏ lại, sử dụng một số bộ lọc hoặc thậm chí phải chụp
vào đầu giờ sáng hoặc cuối ngày khi cường độ ánh sáng giảm đi.
Ảnh: Vladimir Antropov
8. Đừng bỏ qua các yếu tố thời tiết
Một cảnh vật có thể thay đổi đáng kể tùy thuộc vào
thời tiết tại bất kỳ thời điểm nào. Kết quả là, chọn đúng thời điểm để
chụp ảnh là thực sự quan trọng.
Nhiều người mới tập chụp ảnh khi nhìn thấy một ngày
nắng đẹp thường nghĩ rằng đó là thời gian tốt nhất để đi ra ngoài với
máy ảnh, tuy nhiên một ngày u ám, thậm chí có nhiều dấu hiệu sắp mưa có
thể mang tới cho bạn một cơ hội tốt hơn để tạo ra những hình ảnh có tâm
trạng và những sắc thái độc đáo. Hãy tìm kiếm những cơn bão, gió, sương
mù, những đám mây vần vũ, mặt trời chiếu xuyên qua bầu trời tối, cầu
vồng, hoàng hôn và bình minh... và làm việc với các điều kiện thời tiết
nhiều biến động ấy thay vì chỉ chờ đợi đến ngày nắng đẹp trời xanh.
Ảnh: 3amfromkyoto
9. Chọn "giờ vàng" để chụp
Rất nhiều nhà nhiếp ảnh cho biết kinh nghiệm của họ
là không bao giờ chụp ảnh vào ban ngày, mà chỉ chụp lúc bình minh và
hoàng hôn - bởi vì đó là khi ánh sáng tốt nhất và phong cảnh trở nên
sống động.
Những giờ "vàng" này được xem là tuyệt vời cho chụp
phong cảnh vì một số lý do, trong đó có lý do đáng chú ý là: ánh sáng
vào những khoảng thời gian này luôn có ánh vàng rất đẹp và phản chiếu
vào ảnh rất lung linh. Ngoài ra, khoảng thời gian này cũng rất dễ cho
bạn lựa chọn những góc ánh sáng đẹp và tìm ra những phản chiếu của ánh
sáng lên cảnh vật xung quanh.
Ảnh: vô danh
10. Hãy suy nghĩ về các đường chân trời
Đây là một mẹo cũ nhưng tốt nhất. Trước khi bạn có chụp một bức ảnh phong cảnh, hãy luôn xem xét đường chân trời theo hai cách.
- Nó có thẳng không? Mặc dù bạn có thể chỉnh hình ảnh cho thẳng bằng xử lý hậu kỳ, nhưng tốt nhất hãy làm điều đó ngay từ lúc bạn chụp ảnh.
- Đặt đường chân trời ở đâu – một đường
giao nhau giữa trời và đất thật tự nhiên để thể hiện chân trời chính là
một trong các đường phân chia bức ảnh làm ba trong nguyên tắc 1/3, tức
là đường 1/3 phía trên hoặc phía dưới, đừng để ở giữa bức ảnh. Tất nhiên
quy tắc này vẫn có thể phá vỡ, nhưng trừ khi điều đó mang lại một tác
dụng cực kỳ ấn tượng, còn thì nguyên tắc này luôn luôn đúng.
Ảnh: vô danh
11. Thay đổi góc nhìn khi chụp ảnh
Bạn lái xe dọc theo địa hình để tìm cảnh chụp, đến
khi thấy cảnh ưng ý là ra khỏi xe, lấy máy ảnh, bật nó lên, đi bộ đến
một điểm nào đó, nâng máy ảnh lên mắt, xoay trái xoay phải một chút,
phóng to thu nhỏ một chút, và chụp một vài bức ảnh, sau đó thì lại lên
xe để đi tìm điểm chụp tiếp theo.
Chúng ta phần lớn đều làm như vậy khi đi chụp ảnh
phong cảnh, tuy nhiên việc này khó mà có thể mang lại những bức ảnh bất
ngờ mà ai cũng phải trầm trồ - mà đó mới là điều mà ta đang tìm kiếm.
Hãy chịu khó mất thêm một chút thời gian nữa cho các
bức ảnh của bạn - đặc biệt là tìm kiếm một góc ảnh thú vị hơn. Hãy bắt
đầu với việc tìm kiếm một vị trí khác để chụp, hay đi lang thang xuống
các con đường, các lối mòn, thậm chí là những nơi chưa có lối đi, để tìm
những góc chụp mới. Hãy thử tìm cách cúi xuống thấp hơn, hoặc đi lên
phía cao hơn để tìm một điểm thuận lợi và chụp.
Khám phá môi trường và thử nghiệm với các điểm chụp khác nhau và bạn sẽ có thể tìm thấy một cái gì đó thật sự độc đáo.
Ảnh: curious_spider
Vân Hà
|
Tự học chụp ảnh - Tốc độ cửa trập |
|
|
Yêu cầu chuẩn bị
|
Thiết bị: Bất kỳ máy du lịch nào và một chân máy mini.
|
|
Mục tiêu: Nắm bắt được tốc độ cửa trập là gì và các thiết đặt khác nhau sẽ tác động đến hình ảnh như thế nào.
|
|
Bên
trong máy ảnh có một cơ chế cửa trập mở ra/đóng vào với tốc độ nhanh
chậm khác nhau để điều chỉnh lượng sáng đi vào cảm biến. Tốc độ được coi
là nhanh thường từ mức 1/125 giây hoặc hơn như 1/250 hay 1/500 giây.
Tốc độ được coi là chậm từ mức 1/30 giây hoặc thấp hơn như 1/15 hay 1/8
giây. Tuy nhiên, các thông số nhanh chậm này không cố định mà còn phụ
thuộc vào độ cầm máy chắc tay của người chụp.
Tốc độ nhanh.
|
Tốc độ nhanh cho phép đóng băng khoảnh khắc chuyển động, như trong ví dụ về các vận động viên bãi biển này. Ảnh: Shawn Low / Cnet.
|
Với
đặc tính có thể đóng băng chuyển động, tốc độ nhanh rất hữu dụng trong
việc chụp các vật thể chuyển động nhanh như ôtô đua hay vận động viên.
|
Với các vật thể chuyển động nhanh, nếu
dùng tốc độ chậm để chụp (như ảnh trên) sẽ gây nên hiện tượng mờ ảnh do
bị tác động bởi cả chuyển động nhanh của vật lẫn độ rung lắc do tay cầm
máy gây nên. Ảnh: Ardelfin/MorgueFile.
|
Tốc
độ cửa trập nhanh nghĩa là quá trình mở ra đóng vào của cửa trập nhanh
hơn, ảnh sẽ không bị mờ do độ rung của tay bấm gây nên. Hầu hết máy ảnh
du lịch hiện nay sẽ tự động tăng tốc độ chụp nếu ánh sáng nhiều (như
chụp dưới ánh nắng). Tuy nhiên, vẫn có những cách có thể buộc máy ảnh
tăng tốc độ chụp nhưng vấn đề này sẽ được bàn tới ở những bài sau. Ở bài
này, người học chỉ cần nhớ tốc độ nhanh sẽ giúp đóng băng chuyển động
và tránh cho ảnh khỏi bị mờ do độ rung của tay cầm máy.
Tốc độ chậm.
|
Tốc độ chậm được dùng cho ảnh chụp đêm. Tuy nhiên, nhớ mang thêm chân máy để tăng thêm độ vững chắc. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
|
Tốc
độ chụp chậm cho phép ánh sáng vào cảm biến nhiều hơn, vì thế nó thường
được sử dụng để chụp ảnh trong những điều kiện thiếu sáng. Tuy nhiên,
máy ảnh luôn có xu hướng bị rung do tay cầm khi chụp ở tốc độ chậm khiến
cho ảnh bị mờ, vì thế tốt nhất trong những trường hợp này là người chụp
nên dùng chân máy.
|
Sử dụng tốc độ chụp chậm khiến cho dòng nước chảy trông mềm mại như lụa. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
|
Hình
ảnh một dòng nước rõ nét có thể khiến bức ảnh trở nên nhàm chán. Các
dòng sông hay thác nước (như ở bức ảnh trên) trông sẽ gợi cảm hơn nếu
như được chụp bằng tốc độ chậm, tạo nên độ mờ ảo của hiệu ứng chuyển
động chảy. Cách tốt nhất để tạo hiệu ứng này là sử dụng tốc độ chậm, độ
mở nhỏ (f/11 tới f/22) và chân máy.
Tốc độ cửa trập hiển thị ở đâu?
|
Tốc độ cửa trập hiển thị ở đây là giá trị 1/13 giây. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
|
Hầu
hết máy ảnh du lịch không cho phép người chụp chỉnh tốc độ cửa trập,
nhưng người chụp vẫn có thể xem giá trị thông số này khi bấm nhá lấy
nét. Các thông số phơi sáng mà máy ảnh tính toán thường được hiển thị ở
cạnh dưới của màn hình LCD.
|
Có thể thay đổi tốc độ cửa trập được không?
Như
đã đề cập, hầu hết máy ảnh du lịch không cho phép chỉnh sửa tốc độ cửa
trập. Tuy nhiên, ở các bài học sau về độ mở và ISO, bạn sẽ học cách
chỉnh tốc độ cửa trập gián tiếp của việc điều chỉnh các thông số này.
Nguyễn Hà - sohoa.net
Tự học chụp ảnh - Tìm hiểu về máy ảnh |
|
|
|
Máy
ảnh số du lịch (dạng ngắm-chụp) ngày càng phổ biến với mức giá hầu như
ai cũng có thể sở hữu một chiếc. Mặc dù đã được thiết kế tự động tối ưu
để người dùng chỉ việc ngắm là chụp, đúng như tên gọi của sản phẩm,
nhưng để có được những bức ảnh đẹp, một chút kiến thức về máy ảnh và
nhiếp ảnh là điều cần thiết. Tạp chí công nghệ Cnet đã
thiết kế một khóa học với những bài học ngắn gọn và dễ hiểu cho những
người mới bắt đầu làm quen với máy ảnh, giúp họ có thể nhanh chóng nắm
vững những vấn đề kỹ thuật cơ bản trong một thời gian ngắn ngủi.
Yêu cầu chuẩn bị
|
- Thiết bị: Máy ảnh ngắm - chụp.
- Mục
tiêu: Học về các bộ phận chủ yếu của máy ảnh và làm quen về cách bố trí
các nút chức năng trên một máy ảnh thông thường, giúp người học nắm
vững nút nào dùng để làm gì.
- Thời gian nắm bắt: Khoảng 15 phút.
|
Trước
khi học về nhiếp ảnh, điều đầu tiên cần biết là hiểu máy ảnh của mình,
hiểu chức năng của từng nút bấm, biết khi nào sử dụng chúng để có được
bức hình mong muốn. Bài này sẽ chỉ trình bày những chức năng cơ bản nhất
của một chiếc máy ảnh. Mỗi máy ảnh gồm 13 bộ phận chính. Nếu máy ảnh
bạn đang sở hữu không có đủ hoặc có nhiều hơn 13 bộ phận này, bạn cần
đọc thêm về chức năng của chúng trong sách hướng dẫn sử dụng máy ảnh của
mình.
|
Máy ảnh compact có 13 bộ phận chính. Ảnh: Cnet.
|
1.
Đèn flash tích hợp trên thân máy giúp chiếu sáng đối tượng trong điều
kiện chụp tối. Đèn có thể được cài đặt để chớp tự động (chỉ chớp khi cần
thiết), chớp cưỡng bức (luôn chớp) hay tắt.
2.
Đèn hỗ trợ lấy nét chỉ bật khi điều kiện ánh sáng môi trường chụp không
đủ cho máy ảnh lấy nét. Một số máy ảnh cho phép bạn tắt tính năng này
để tránh làm đối tượng mất tập trung.
3.
Ống kính thu cảnh vật (ánh sáng) để hiển thị trên cảm biến. Một số ống
kính máy ảnh được thiết kế dạng thò thụt khi bật/tắt máy, trong khi một
số khác lại thiết kế ống kính trong lòng máy ảnh (không thò thụt ra
ngoài).
|
Phần lớn màn hình LCD trên máy compact sẽ khoảng 2,5 tới 3,5 inch. Ảnh: Cnet.
|
4.
Vòng chế độ cho phép chuyển đổi giữa các chế độ chụp khác nhau. Ngoài
các chức năng mặc cảnh, hầu hết máy ảnh đều có chế độ P và chế độ A. Ở
chế độ P (Program), máy sẽ tính toán các thông số phơi sáng, còn lại cho
phép người chụp chỉnh một số thông số như đèn flash, ISO, cân bằng
trắng. Còn chế độ A (Auto) là tự động hoàn toàn, máy sẽ lo tất cả các
thông số liên quan, việc của người dùng chỉ là ngắm và bấm máy.
5.
Màn hình LCD phía sau là nơi người chụp dùng để căn khung hình khi chụp
cũng như xem lại ảnh vừa chụp. Có nhiều kích cỡ màn hình LCD khác nhau,
từ 2,5 inch tới 3,5 inch tùy máy. Hầu hết thường có độ phân giải từ
230.000 điểm ảnh, nhưng ở một số máy ảnh cao cấp hơn, độ phân giải có
thể lên đến 920.000 pixel. Màn LCD có thể cố định ở thân máy, có thể ở
dạng lật xoay, hoặc có thể chỉ lật dùng trong các trường hợp chụp hất
lên hoặc chúc xuống.
6.
Phím điều hướng thường ở phía sau máy dùng để duyệt qua menu và các lựa
chọn. Xung quanh sẽ có một nút hiển thị thông tin trên màn LCD (thường
có tên DISPLAY) và nút xem lại hình vừa chụp (ký hiệu là hình tam giác).
Các chức năng truy cập nhanh cũng được hiển thị bằng biểu tượng in trên
nút điều hướng. Lưu ý, mỗi máy ảnh khác nhau sẽ có cách sắp xếp khác
nhau.
|
Các nút chức năng ở rìa trên máy ảnh. Ảnh: Cnet.
|
7.
Nút chụp ảnh có hai chức năng là lấy nét và chụp. Nếu bạn nháy nhẹ nút
chụp, máy ảnh sẽ điều chỉnh ống kính để lấy nét, nếu bạn nhấn mạnh, máy
sẽ chụp.
8.
Nút điều chỉnh zoom dùng để thay đổi tiêu cự giữa góc rộng và tele
thường được bố trí thành một vòng bao quanh nút chụp ảnh. Có những máy
lại chọn kiểu thanh bấm hai nút hai đầu ở phía sau.
9. Nút công tắc nguồn dùng để bật/tắt máy ảnh.
|
Nắp che pin dưới đáy máy. Ảnh: Cnet.
|
10. Nắp che pin thường ở dưới đáy và thường được mở kiểu kéo trượt hoặc gạt lẫy để lắp pin và thẻ nhớ.
11. Lỗ lắp chân máy được đặt phía dưới đáy máy, cạnh nắp che pin.
|
Các cổng kết nối bên sườn máy. Ảnh: Cnet.
|
12.
Bên sườn máy ảnh thường là các cổng kết nối để nối máy ảnh với máy tính
hoặc màn hình ngoài. Cáp cho các cổng này thường được đi kèm máy (cáp
USB, cáp AV) hoặc có thể phải mua rời (cáp HDMI).
13. Lỗ xỏ quai đeo máy ảnh.
Trên đây là một số bộ phận cơ bản của một máy ảnh số du lịch thông dụng.
Bài tới sẽ về các kỹ thuật căn khung và tìm hiểu các chế độ mặc cảnh trên máy ảnh.
Nguyễn Hà - sohoa.net
|
Tự học chụp ảnh - Các nguyên tắc cơ bản |
|
|
|
Chuẩn bị
|
Thiết bị: Bất cứ máy ảnh du lịch nào.
|
|
|
Mục
tiêu: Nắm được những nguyên tắc cơ bản của nhiếp ảnh để giúp chụp những
bức ảnh đẹp cũng như tận dụng được các chức năng mặc cảnh của máy ảnh.
|
|
|
Thời gian cần thiết: 20 phút.
|
Các nguyên tắc cơ bản
Nguyên tắc phần ba.
|
Một số máy ảnh tích hợp sẵn đường lưới
căn khung. Bạn chỉ việc bật lên bằng cách bấm nút DISPLAY hoặc DISP liên
tục đến khi các đường này xuất hiện. Nếu không bạn phải xem thêm ở sách
hướng dẫn. Ảnh: Cnet.
|
Đây
là nguyên tắc cơ bản và nguyên thủy nhất của nhiếp ảnh, vốn bắt nguồn
từ các họa sĩ của những năm 1797. Nguyên tắc này thực ra rất đơn giản,
đó là chia cảnh thành 9 vùng bằng nhau với hai đường dọc, hai đường
ngang (như hình trên). Sau đó người chụp chỉ việc đặt đối tượng chụp vào
bất kỳ điểm giao nhau nào (4 điểm). Việc này nhằm tạo sự hợp lý về bố
cục thay vì đặt cân đối trong khuôn hình.
Căn khung
|
Cảnh sẽ trở nên đẹp hơn nếu bạn sử dụng kỹ thuật tạo khung cho ảnh. Ảnh: Cnet.
|
Đôi
khi một cảnh sẽ trở nên đẹp hơn nếu bạn sử dụng kỹ thuật tạo khung cho
ảnh. Chụp qua nan hoa bánh xe đạp hoặc sử dụng các cành lá phía trên,
dưới hoặc hai bên làm khung che bớt những cảnh xung quanh, cảnh ở giữa
khung trông sẽ nổi bật hơn và sẽ thu hút được sự chú ý của người xem
hơn.
|
|
Phối cảnh
|
Cố gắng thử nhiều góc độ để tìm góc đạt
phối cảnh ấn tượng nhất. Đặt máy ảnh xuống đất rồi hất lên hoặc giơ
thẳng máy lên trời sẽ tạo một cách nhìn thú vị hơn là để máy ngang tầm
mắt như thông thường. Ảnh: Cnet.
|
Sử
dụng các đường nét để tạo cho ảnh có một độ sâu nhất định. Ví dụ khi
chụp một tòa nhà từ dưới chân hất lên, bức ảnh sẽ tạo nên một cảm giác
tòa nhà này cao hơn bình thường. Hoặc bạn cũng có thể dùng các đường nét
để dẫn hướng người xem tới phần chính của đối tượng chụp. Với những
cảnh kiểu này, bạn nên sử dụng tiêu cự rộng nhất có thể của máy để ảnh
bao quát được nhiều đối tượng.
Bản mẫu (Patterns)
|
Nên sử dụng những mẫu đơn giản cho khung hình không quá rối rắm, gây mất tập trung cho người xem. Ảnh: Cnet.
|
Hãy
tìm mẫu với các đối tượng lặp đi lặp lại trong khung cảnh và đưa nó vào
khung hình. Nếu ít, bạn có thể zoom lại gần để nó chiếm phần lớn khung
hình và loại bỏ được các đối tượng gây mất tập trung. Như bức hình trên,
người chụp đã zoom lại gần bức tường chắn trước khu nhà cao tầng với
các lỗ gạch để tạo nên một mẫu nền rất thú vị.
Các chế độ mặc cảnh cơ bản
Các
chế độ mặc cảnh trên máy của bạn có thể giúp cải thiện chất lượng chụp
ảnh nếu biết sử dụng đúng nơi đúng chỗ. Dù tự động, nhưng các chế độ này
vẫn cần thêm một chút điều chỉnh từ người chụp thì mới phát huy được
hết tính năng.
|
|
Chế độ chân dung (Portrait)
|
Ảnh chụp bằng chế độ Portrait. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
|
Một
số người chụp thích để phía hậu cảnh mờ để nhấn mạnh hơn vào đối tượng.
Thông thường, chế độ nhận diện khuôn mặt sẽ tự động canh nét vào mặt
người chụp và chọn độ mở thích hợp (độ mở lớn) để tạo một ảnh chân dung
nổi hơn trên nền hậu cảnh.
Chế độ phong cảnh (Landscape)
|
Chụp bằng chế độ Landscape. Ảnh: Shawn Low/Cnet.
|
Chế
độ phong cảnh khá hữu dụng cho việc chụp cảnh thông thường bởi ở chế độ
này, tông màu lục và màu lam sẽ được kích lên để bức ảnh trông rực rỡ
hơn. Máy ảnh ở chế độ này cũng sẽ lựa chọn độ mở thích hợp sao cho toàn
bộ khung cảnh đều được nét.
Chế độ chụp bãi biển/tuyết (Snow/Beach)
|
Chụp bằng chế độ Snow/Beach. Ảnh: Chee-onn Leong/Cnet.
|
Máy
ảnh sẽ tự giảm phơi sáng để tránh hiện tượng cháy sáng do độ sáng chênh
lệch giữa tuyết hoặc nước biển so với cảnh vật xung quanh. Vì thế, ảnh
sẽ trông hơi tối hơn để có thể thể hiện các chi tiết vùng sáng rõ hơn.
Chế độ chụp đêm (Night mode)
|
Chụp bằng chế độ Night Mode. Ảnh: Eugene Barzakovsky / Cnet.
|
Chế
độ chụp đêm là dễ bị "bẫy" nhất. Thông thường, nhiều người phàn nàn
rằng ảnh chụp ở chế độ này thường bị rung, mờ. Vấn đề chủ yếu do người
dùng cầm máy không đủ chắc. Nên nếu không có chân máy, bạn cần đặt máy ở
một mặt phẳng vững chắc để tránh rung tối đa chứ không nên cầm tay.
Nguyễn Hà - sohoa.net
|
|
|
Nhiếp ảnh làm cuộc sống của tôi tốt đẹp hơn |
|
|
|
Trước
đây, tôi cũng là người rất ưa chụp ảnh, từ thuở còn máy phim. Tôi rất
thích chụp ảnh con cái mình, từ những lúc chúng chào đời, bước đi, vui
chơi, Noel, thăm ông bà, đi nghỉ… Khi xem lại quả thật đó là những
khoảnh khắc tuyệt vời làm gợi lại không ít kỷ niệm. Nhưng tôi cũng chỉ
dừng lại ở đó, bởi sau này những vấn đề khác của cuộc sống đã chiếm hết
thời gian của mình. Tôi không chụp ảnh trong rất nhiều năm, bởi tôi bị
vây quanh với bao trách nhiệm của một người mẹ, người chị, người con,
người vợ và người làm công ăn lương nữa.
Nhưng
rồi trong một dịp Giáng sinh, tôi được tặng một món quà là một chiếc
máy ảnh mới. Từ đó tôi như được mở mắt với một cách nhìn hoàn toàn mới
về nhiếp ảnh, và chỉ trong vòng chưa đầy một năm, tôi đã học được bao
nhiêu điều.
|
Tôi đã biết tập trung vào từng chi tiết trong mỗi góc nhìn.
|
|
|
Ảnh: Digitalphotographyschool.
|
1. Nhìn
Giờ
đây tôi luôn nhìn ngắm thế giới xung quanh, tập trung vào từng chi tiết
trong mỗi góc nhìn. Tôi nhìn thật sự, theo đúng nghĩa của nó, nhìn
xuống, nhìn lên, nhìn ra xung quanh. Không có chi tiết nào, dù lớn hay
nhỏ mà tôi không nhìn ngắm và rồi tưởng tượng xem nó sẽ như thế nào khi
xuất hiện trên ảnh, dù có khi lúc đó tôi không hề có máy ảnh. Trước khi
tái khởi động niềm đam mê nhiếp ảnh của mình, tôi chỉ đi lòng vòng và
chụp theo kiểu lấy dược các cảnh vật xung quanh. Nhưng giờ thì không còn
như thế nữa, giờ tôi đã nhìn ngắm thế giới một cách chú tâm hơn.
2. Quan sát
Mặc
dù đã cải thiện vấn đề nhìn ngắm của mình, tôi thấy rằng đôi khi chỉ
nhìn không cũng chưa đủ, bạn còn phải quan sát nữa. Hãy biết cách quan
sát các góc khác nhau, các mặt khác nhau, ánh sáng khác nhau hay chiều
cao khác nhau từ các vị trí thuận lợi có thể chụp ảnh được.
3. Thời gian
Thời
gian vốn dùng để đo xem đi từ nơi này đến nơi kia hết bao lâu. Nhưng
giờ đây, với tôi, thời gian mang nghĩa khác hơn nhiều. Tôi tận dụng nó
nhìn ngắm xung quanh một cách sáng suốt hơn, cố gắng nhìn và quan sát
nhiều nhất có thể. Thời gian không chỉ là chiếc đồng hồ cứ lần lượt điểm
tiếng này sang tiếng khác, mà nó giờ còn là vị trí, địa điểm chụp mà
tôi có thể tính trước, giải thích tại sao tôi lại chọn đối tượng như
vậy, hay làm thế nào tôi sử dụng thời gian như một lợi thế để bắt được
những hình ảnh mà tôi đã quan sát được.
|
Ánh sáng là một phần không thể thiếu trong nhiếp ảnh của bạn. Ảnh: Digitalphotographyschool.
|
4. Ánh sáng
Nghệ
thuật và Nhiếp ảnh đều bắt nguồn từ cách hiểu đúng và sử dụng đúng ánh
sáng. Giờ đây, tôi bắt đầu quan tâm ánh sáng bắt đầu từ đâu, mạnh yếu
thế nào, mật độ ra sao, thời gian bao lâu và độ sáng tối như thế nào.
Trước đây, tôi gần như chẳng quan tâm và thường có thái độ hờ hững với
những điều này. Nhưng giờ, tôi nhận thấy khi bạn đã có máy ảnh ở trong
tay mình, ánh sáng lúc này sẽ trở thành một phần không thể thiếu trong
cuộc sống của bạn.
5. Khoảng cách
Điểm
nhấn của bức ảnh không chỉ là ánh sáng mà còn khoảng cách. Liệu một
người đứng xa bao nhiêu thì vừa để có thể có được một bức ảnh đẹp vào
đúng thời điểm? Thật kỳ diệu khi bạn có thể thấy trước được một khung
cảnh hoàn hảo thế nào trên ảnh từ việc bạn chọn đối tượng nào, bạn sẽ
đứng ở đâu và sẽ dùng ống kính gì.
6. Học hỏi
Như
người xưa vẫn thường nói, bạn cần học hỏi không ngừng, nhất là đối với
nhiếp ảnh, kể các các nhiếp ảnh gia chuyên nghiệp. Có rất nhiều trang
web dạy về nhiếp ảnh trên mạng với các kỹ năng hay mẹo, các bài phân
tích, giải thích kỹ lưỡng về ảnh… Kể cả khi học hỏi được những điều mới,
những điều cũ cũng không hề mất đi tầm quan trọng, như cách chỉnh độ
mở, tốc độ, cách lấy khuôn hình tỷ lệ chuẩn một phần ba. Thêm một điều
nữa là hãy học hỏi từ những người đi trước. Họ là những kho tàng kiến
thức nhiếp ảnh lớn và bạn sẽ học thêm được rất nhiều điều thú vị.
7. Đi lại
Tôi
bắt đầu khám phá thông qua các chuyến đi, không cần phải là đi vòng
quanh thế giới hay chờ đến kỳ nghỉ hè. Tôi đi hàng ngày tới những nơi
xung quanh thành phố hay các vùng lân cận. Dù ở một đô thị to hay một
làng nhỏ, nếu chịu khó đi và nhìn ngắm xung quanh mình, bạn sẽ thấy được
nhiều nơi thật đẹp và sẽ chụp được nhiều bức ảnh độc đáo không ai có.
Hãy nhìn, quan sát và nhận thức tất cả những cảnh vật xung quanh nơi
mình đang sống. Việc này vừa thú vị, vừa rẻ tiền, lại giúp bạn học được
thêm bao nhiêu điều về thế giới ngay xung quanh bạn.
|
Khám phá qua những chuyến đi. Ảnh: Digitalphotographyschool.
|
8. Giây phút
Trước
khi có máy ảnh, giây đối với tôi chả nghĩa lý gì. Giờ đây khi bắt đầu
nhận thấy thời gian liên quan tới vẻ đẹp của một bức hình thế nào, tôi
mới thấy từng giây thôi cũng quan trọng không kém. Chỉ từng giây cũng đủ
làm nên khác biệt giữa một cử động. Giây chính là sự chia nhỏ thời gian
trong thời gian. Thời gian là chức năng của không gian và khoảng cách
và đó sẽ mãi là vấn đề cho các nhiếp ảnh gia tìm hiểu.
9. Tập trung
Tập
trung ở đây muốn đề cập tới sự tập trung cá nhân. Bạn cần phải biết
hướng sự tập trung của mình vào những thứ tưởng chừng như bình thường
như pin máy ảnh, các thông số cài đặt, đối tượng, môi trường chụp hay
quản lý thời gian của mình. Không phải lúc nào bạn cũng chỉ quan tâm tới
chụp ảnh mà còn bao nhiêu vấn đề sau này nữa không kém phần quan trọng,
như xử lý ảnh hậu kỳ, đóng khung ra sao, tiếp thị ảnh theo cách nào…
Hàng loạt công việc không tên khác dài dằng dặc của một nhiếp ảnh gia,
đôi khi chính nó lại tiếp tục nuôi dưỡng niềm đam mê chụp ảnh của chính
mình.
10. Trân trọng
Với
máy ảnh trong tay, tôi bắt đầu biết cách trân trọng từng nụ cười, từng
điệu bộ, những cảnh hoàng hôn, ngôi nhà, đứa trẻ hay bãi biển… Tôi nhìn
mọi thứ khác hơn, rõ ràng hơn. Ví dụ trên chỉ là một ít trong hằng hà sa
số những điều bạn cần biết để trân trọng cuộc sống. Khi đó, bạn sẽ thấy
rằng cuộc sống cũng sẽ mang lại không ít quà tặng cho mỗi thành quả của
riêng mình.
Nguyễn Hà
Theo sohoa.net
|
|
|
5 điều cần biết khi 'lên đời' với máy ảnh ống kính rời |
|
|
|
|
DSLR ngày càng được chọn mua nhiều hơn. Ảnh: Huy Đức.
|
Mùa hè là thời điểm nhiều người dùng mua camera cho
các chuyến đi du lịch. Với khách hàng lần đầu tiên chọn DSLR, sẽ có
những bất ngờ nhỏ khi chuyển từ model đơn giản sang sản phẩm lớn và
nhiều tính năng hơn. Cnet đã tổng hợp 5 điều để bạn có thể tìm hiểu trước khi quyết định mua.
Chọn thương hiệu
Quyết định lựa chọn thương hiệu liên quan tới nhiều
phụ kiện theo kèm. Mỗi nhà sản xuất đều cho các chuẩn ống kính, đèn
flash khác nhau. Theo đó, lens của Nikon không thể sử dụng cho Canon và
ngược lại.
Khác với máy ảnh compact, DSRL muốn chụp đẹp, cần
phải có ống kính chuyên dụng. Việc lựa chọn thương hiệu, cho phép bạn
mượn hoặc mua các lens phù hợp.
Ổn định hình ảnh
Sony, Olympus và một số nhà sản xuất khác tích hợp
cảm biến ổn định hình ảnh trong máy. Trong khi đó, Canon, Nikon lại đưa
lên ống kính. Người dùng Sony hay Olympus có thể sử dụng bất kỳ ống kính
nào mà vẫn có chức năng chống rung. Các ống kính tích hợp chức năng
chống rung đang ngày một rẻ dần. Tuy nhiên, người dùng Canon khi chọn
các lens cao cấp mã L sẽ tốn thêm nhiều tiền.
Thông thường, ống kính tích hợp chức năng ổn định
hình ảnh quang học làm việc tốt hơn cảm biến tích hợp. Tuy nhiên, bất kỳ
lens nào, khi chụp các bức hình có tốc độ thấp hơn 1/8 giây, thì người
dùng nên sử dụng chân đế.
Chức năng quay phim
Trước đây, chỉ có máy ảnh compact mới hỗ trợ quay
phim. Tuy nhiên, phần lớn các mẫu DSRL giới thiệu gần đây đều tích hợp
khả năng ghi hình HD hoặc full HD.
Hầu hết DSLR mới đều đi kèm với chức năng Live View.
Vì vậy, cho dù bạn là một nhà quay phim tập sự hay chỉ chụp hình, bạn
luôn luôn có tùy chọn để quay video. Tập tin video trên DSLR thường có
chất lượng tốt hơn trên các máy compact, nên chiếm nhiều dung lượng bộ
nhớ trên máy tính. Hơn nữa, nhiều máy DSLR tầm trung có xu hướng mau hết
pin hơn khi quay video hơn so với chụp hình.
Một số điều về máy ảnh compact cao cấp
Máy ảnh compact cao cấp được xem là cầu nối giữa máy
ảnh compact và DSLR. Tuy nhiên, nó không thể thay được ống kính và do
đó các máy này đều được đi kèm với ống kính siêu zoom có thể lên đến
42x. Với các nhà nhiếp ảnh muốn có chất lượng hình tốt hơn, thì DSLR vẫn
là lựa chọn vì cảm biến lớn hơn hầu hết các máy compact cao cấp. Ngoài
ra, chất lượng hình ảnh trên DSRL cũng tốt hơn, đặc biệt là ở chế độ ISO
cao.
Vài năm gần đây cũng xuất hiện một dòng máy ảnh mới
là máy ảnh ống kính rời không gương lật. Những mẫu máy ảnh này cho phép
thay đổi ống kính nhưng thiếu một tấm gương phản xạ. Các sản phẩm này
nhỏ và nhẹ hơn so với hầu hết các máy DLSR.
Bảo vệ thiết bị của bạn
Sau khi đầu tư rất nhiều tiền vào thiết bị, bạn cần
bảo vệ tốt nhất có thể cho chúng. Đầu tiên, người dùng cần đầu tư cho
một chiếc túi chắc chắn cho máy khi ra ngoài chụp hình. Chú ý, túi phải
thoải mái khi mang vác trong thời gian dài. Theo đó, loại đeo chéo phù
hợp khi lấy máy nhanh, nhưng với người thích phong cảnh, du lịch thì
balô là lựa chọn hợp lý.
Nếu bạn sống tại vùng nhiệt đới thì nên xem xét
nghiêm túc việc cất giữ các thiết bị trong một tủ hay hộp khô và kính
với các bịch hút ẩm. Điều này giúp bảo vệ ống kính và máy ảnh khỏi bị
nhiễm nấm.
Việc mua một chiếc máy ảnh DSLR đầu tiên có thể là
kinh nghiệm khó khăn hay hứng khởi điều này tùy thuộc vào sự chuẩn bị
của bạn. Trước khi trả tiền cho máy ảnh, bạn nên cầm và xem qua nó nếu
bạn cảm thấy thoải mái với tay cầm và trọng lượng của nó không.
Bạn nên làm thân với người bán hàng, bởi hầu hết họ
đều hiểu biết về DSLR và có thể sẽ cho những lời khuyên. Và có thể, họ
sẽ giảm giá cho bạn trong các lần mua sau.
|
Chọn kính lọc cho máy ảnh |
|
|
|
Kính
lọc là dụng cụ quang học bổ trợ máy ảnh, bao gồm một lớp kính có tác
dụng nhất định đối với một hoặc vài thành phần ánh sáng, nhằm bảo vệ ống
kính, cảm quang hay tạo ra những hiệu ứng bất ngờ cho ảnh. Ở một số máy
du lịch cao cấp, kính lọc đã được tích hợp sẵn trong ống zoom và thường
là loại kính giảm sáng để chụp trong điều kiện ánh sáng chói. Đối với
các máy DSLR, chúng thường được gắn trên miệng ống kính và có nhiều
chủng loại để chọn.
Dưới đây là bảng phân loại một số kính lọc phổ biến, dựa trên tác dụng của chúng theo trang web Cambridgeincolour.
Loại kính lọc
|
Tác dụng chính
|
Đối tượng sử dụng
|
Kính lọc phân cực
|
|
|
Polarizers filter)
|
- Giảm bớt ánh sáng chói.
|
|
|
- Tăng bão hòa màu cho ảnh.
|
- Bầu trời, dòng nước hay tán lá (nhiếp ảnh phong cảnh nên có).
|
Kính lọc ND (Neutral Density filter)
|
- Mở rộng thời gian phơi sáng.
|
- Thác nước, dòng sông dưới ánh sáng mạnh.
|
Kính lọc GND (Graduated Neutral Density filter)
|
- Kiểm soát vùng ánh sáng mạnh của ảnh.
|
|
|
- Giảm hiện tượng đen 4 góc.
|
- Cảnh có độ sáng mạnh.
|
Kính lọc tử ngoại (UV/Haze filter)
|
- Tăng độ trong của ảnh dùng film.
|
|
|
- Bảo vệ ống kính.
|
- Dùng được trong mọi trường hợp.
|
Kính lọc sắc ấm/sắc lạnh (Warming/Cooling filter)
|
- Thay đổi cân bằng trắng
|
- Ảnh phong cảnh, chụp dưới nước hay một số trường hợp ánh sáng đặc biệt
|
1. Kính lọc phân cực
|
Kính lọc phân cực đường kính 67 mm. Ảnh: Wikipedia.
|
Kính
lọc phân cực là loại quan trọng nhất trong chụp ảnh phong cảnh. Chúng
giảm bớt một lượng đáng kể ánh xạ đi đến chip cảm quang. Do đó, những
ảnh chụp bầu trời thường có sắc xanh đậm hơn, giảm khả năng cháy tại
những vùng như mặt nước hoặc các bề mặt phản chiếu ánh sáng mạnh. Kính
lọc thậm chí còn có tác dụng hạ bớt độ tương phản giữa các vùng ánh sáng
đối lập như bầu trời - mặt đất hay trong nhà - ngoài trời.
Loại
kính lọc đặc biệt này có thể điều chỉnh độ phân cực bằng cách xoay vòng
quay bên hông kính. Bạn có thể sử dụng ống ngắm hoặc bật chế độ
LiveView để xem trước hiệu ứng phân cực.
|
Hai bức ảnh được chụp bởi cùng một máy
ảnh, trong đó, ảnh bên phải có sử dụng thêm kính lọc phân cực. Kính lọc
phân cực có tác dụng giảm độ sáng tại những chi tiết quá sáng và tăng độ
bão hòa màu. Ảnh: Wikipedia.
|
Tác
dụng của kính lọc CPL phụ thuộc nhiều vào hướng đặt máy ảnh của bạn và
hướng của nguồn sáng chủ đạo trong ảnh (như mặt trời). Hiệu ứng phân cực
mạnh nhất khi máy ảnh của bạn hướng vuông góc với hướng ánh sáng. Điều
này có nghĩa là khi mặt trời ở trên đỉnh đầu, vùng gần đường chân trời
sẽ bị phân cực nhiều nhất. Tuy nhiên, loại kính lọc này cũng làm giảm
đáng kể lượng sáng mà cảm biến ảnh thu nhận, thường từ 2-3 f-stop (tương
ứng với 1/8 đến 1/4 lượng ánh sáng chính của cảnh). Điều này có thể
khiến bạn phải tăng thời gian phơi sáng lên một chút, do đó, trong một
số trường hợp, ảnh thu được từ những chuyển động nhanh sẽ bị nhòe. Kính
lọc CPL đi với những ống kính góc rộng sẽ khiến cho những thước chụp bầu
trời trở nên không thật do có một số vùng trên đó bị tối rõ rệt. Do
vậy, bạn nên điều chỉnh kỹ càng trước khi sử dụng loại kính lọc này.
2. Kính lọc ND
|
Kính lọc ND loại 28 mm. Ảnh: MTU.
|
Kính
lọc ND cũng có tác dụng giảm lượng ánh sáng mà chip cảm quang thu nhận
được. Loại màu xám này hữu dụng trong trường hợp muốn tăng thời gian
phơi sáng cho ảnh khi ISO đã đặt ở mức thấp nhất. Do đó, hiệu ứng gián
tiếp mà loại này gây ra cũng rất đáng chú ý.
-
Làm mượt dòng nước đang chảy, tạo cảm giác liền mạch.
-
Giúp tăng độ mở ống kính trong ánh sáng mạnh, nhờ đó thu hẹp độ sâu trường ảnh.
-
Giảm bớt nhiễu xạ ánh sáng, vốn là nguyên nhân khiến ảnh kém sắc nét khi mở khẩu.
-
Làm những chuyển động trở nên mờ ảo, có tác dụng nghệ thuật theo ý muốn tác giả.
|
Tác dụng của kính lọc có thể thấy rõ
trên hình phải: Làm mượt dòng nước chảy, tạo cảm giác liền mạch thông
qua quá trình kéo dài phơi sáng của cảm biến. Ảnh: Digital-photography.
|
Tuy
nhiên, chỉ sử dụng loại kính lọc này trong một số trường hợp đặc biệt,
do chúng có tác dụng cản sáng khá hiệu quả. Vài kính lọc còn có thể thêm
lượng nhỏ thành phần màu đơn sắc nào đó vào ảnh. Không nên lắp kính lọc
ND vào máy khi bạn cần "đóng băng" chuyển động của vật thể, khi cần độ
sâu trường ảnh lớn hoặc khi bạn đã đặt máy ở ISO thấp mà cảnh lại thiếu
sáng.
3. Kính lọc GND
|
Kính lọc GND có tác dụng chuyển sắc xám từ nhạt đến đậm tùy theo lượng ánh sáng đi vào tại từng vùng trên mặt kính. Ảnh: Flickr.
|
Kính
lọc GND đôi khi còn được gọi là kính lọc từng phần (split filters) do
tác dụng đặc biệt của chúng: chuyển sắc xám từ nhạt đến đậm tùy theo
lượng ánh sáng đi vào tại từng vùng trên mặt kính. Vì vậy, những ảnh
chụp tại vùng có độ tương phản mạnh như mặt đất - bầu trời thường không
bị hiện tượng mất chi tiết hay quá sáng. Bạn cũng có thể đạt được hiệu
ứng tương tự nếu sử dụng máy số chụp hai ảnh với thời gian phơi sáng
khác nhau của cùng một cảnh rồi kết hợp chúng lại hoặc sử dụng chức năng
Linear gradient trong Photoshop. Tuy nhiên, kỹ thuật này thường không
thể sử dụng được nếu cảnh có những vật thể chuyển động hoặc có ánh sáng
thay đổi thường xuyên. Bạn cũng có thể thao tác tăng sáng từng phần trên
ảnh RAW, nhưng đồng thời cũng tăng luôn cả nhiễu ảnh và các chi tiết
giả.
|
|
Ảnh trên chụp bằng ống kính không lắp
kính lọc, bầu trời và mặt mẫu bị cháy. Ảnh dưới chụp qua kính lọc GND,
ánh sáng mạnh của nền trời bị giảm xuống tối đa và màu sắc trở nên trung
tính hơn. Ảnh: Strangeheart.
|
GND
có nhiều loại. Điều quan trọng nhất khi chọn mua là phải xem xét hiệu
ứng mà kính lọc này tạo ra từ vùng tối lên vùng sáng của ảnh. Các loại
Soft Edge GND thường tạo ra một dải mờ trung gian khá dài, trong khi đối
với kính Hard Edge GND, sự chuyển từ vùng tối sang vùng sáng đột ngột
hơn. Hard Edge GND hữu ích khi chụp cảnh hoàng hôn có cả bầu trời và mặt
đất mà không muốn mất đi chi tiết nào của cả hai đối tượng ấy. Một số
kính lọc GND còn có tác dụng thêm hoặc bớt ánh sáng đi vào phần rìa ống
kính, thông thường giúp giảm hiện tượng đen 4 góc ảnh.
Điều
quan trọng thứ hai là sự khác biệt ánh sáng giữa 2 đầu của vùng bị giảm
sáng gây bởi kính GND. Hầu hết ảnh chụp phong cảnh thường cần sự khác
biệt này không quá 1 đến 3 f-stop. Các trường hợp đặc biệt như chụp một
người dưới tán cây trong điều kiện ánh sáng của buổi trưa thì cần loại
kính lọc tạo ra độ chênh lớn hơn 3 f-stop.
4. Kính lọc tử ngoại
|
Kính lọc tử ngoại. Ảnh: Tech2.
|
Đúng
như tên gọi, kính lọc tử ngoại có tác dụng bảo vệ những thành phần thấu
kính nằm ở ngoài cùng khỏi sự tác động của tia tử ngoại, vốn là nguyên
nhân làm biến dạng nhiệt thủy tinh và giảm tuổi thọ của lớp phủ bề mặt.
Các kính này thường trong suốt do đó không làm ảnh hưởng nhiều đến độ
sáng của ảnh. Với máy chụp phim, kính lọc UV còn có tác dụng giảm hiện
tượng sương mù (mờ ảnh) và cải thiện độ tương phản bằng cách hấp thụ bớt
tia tử ngoại gây hiệu ứng phụ lên mặt phủ bạc của phim.
Tuy
nhiên, kính lọc UV cũng có thể làm giảm chất lượng ảnh do gây ra những
mảng chóe sáng (lens flare) xấu xí, thêm vào một lượng nhỏ ánh đơn sắc
hay giảm bớt độ tương phản. Một số còn được phủ thêm lớp chất liệu đặc
biệt nhằm giảm hay làm thay đổi đáng kể hiện tượng chóe sáng. Giữ kính
lọc sạch sẽ cũng là cách hiệu quả, dù rằng những vết xước nặng do lau
rửa sẽ ảnh hưởng không tốt đến độ nét của ảnh.
Đối
với những ống kính đắt tiền, tác dụng của kính lọc UV thường lớn hơn
nhược điểm mà chúng đem lại. Loại này có giá khá mềm nên đôi khi còn
dùng làm "lá chắn" bụi và xước cho thấu kính bên trong.
5. Kính lọc sắc ấm/sắc lạnh
|
Kính lọc sắc lạnh có các dụng giảm gam
màu nóng trên ảnh. Các phần mềm đồ họa như Photoshop cũng có "filter số"
dành để tạo ra hiệu ứng này. Ảnh: Photoshopdaily.
|
Kính
lọc sắc ấm/sắc lạnh có tác dụng thay đổi cân bằng trắng của ánh sáng đi
vào cảm biến ảnh. Loại này có thể sử dụng để sửa chữa hoặc thay thế
những thành phần màu giả như ánh nhợt nhạt của đèn neon hay sắc ấm thái
quá của đèn dây tóc. Kể từ khi công nghệ ảnh số ra đời, chúng dần trở
nên kém quan trọng do quá trình cân bằng trắng tự động của máy đã đảm
nhiệm vai trò đó với độ chính xác cao hơn nhiều. Thậm chí, khi máy ảnh
làm việc sai, bạn cũng có thể tác động vào quá trình cân bằng trắng bằng
phần mềm xử lý file RAW hay "filter số" trong Photoshop.
|
Màu vàng trong bức ảnh trên được tạo ra
từ đèn natri cao áp. Với loại ánh sáng đơn sắc đặc biệt này, hầu như các
hệ thống cân bằng trắng tự động trên máy ảnh đều không cho ra đủ màu
gốc của vật thể. Một kính lọc sắc ấm hay kính lọc đèn natri chuyên dụng
có thể giải quyết được vấn đề trên.
|
Tuy
nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, bạn cũng phải dùng đến kính
lọc sắc, chẳng hạn, khi chụp với những nguồn sáng hiếm gặp hoặc chụp
dưới nước. Kính lọc sẽ đảm bảo những thành phần màu đơn sắc được khôi
phục như trạng thái tự nhiên trong ánh sáng trắng mà hầu như không làm
tăng noise tại các kênh màu chủ đạo như công nghệ cân bằng trắng tự động
thường làm.
6. Các vấn đề nảy sinh khi sử dụng kính lọc
Kính
lọc thường được sử dụng khi cần tạo ra những hiệu ứng đặc biệt cho ảnh.
Tuy nhiên, dù được chế tạo với chất lượng cao nhất đi chăng nữa, chúng
cũng gây ra vài vấn đề. Trước hết, chúng hấp thụ một lượng nhỏ ánh sáng,
làm giảm độ sáng, độ tương phản và độ sắc nét của toàn ảnh. Các kính
lọc này cũng gây ra và làm tăng thêm hiện tượng chóe sáng vốn đã là yếu
điểm của những ống kính phức tạp.
Kính
lọc cũng tạo ra hiện tượng đen 4 góc ảnh (vignetting), đặc biệt khi bạn
lắp một kính CPL lên một kính UV mà lại sử dụng ống góc rộng (độ dày
của 2 kính này cộng lại đủ cản đường truyền của tia sáng tới thấu kính
ngoài cùng). Nói chung, không nên lắp nhiều kính lọc lên nhau vì các vấn
đề đã nhắc phía trên sẽ trở nên nghiêm trọng, chất lượng ảnh sẽ giảm
sút tới mức có thể nhận ra.
7. Lưu ý khi chọn mua
Trước
tiên, bạn phải xác định mục đích khi mua kính lọc. Các kính UV có giá
khá mềm mà lại bảo vệ tốt ống kính nên có thể sử dụng trong mọi trường
hợp. Loại lọc sắc ít dùng hơn vì bạn cần có một chiếc máy xịn với khả
năng tùy chỉnh cân bằng trắng ưu việt. Kính CPL hoặc ND/GND rất hữu dụng
khi chụp phong cảnh hoặc tạo ra các hiệu ứng bất ngờ cho ảnh. Lưu ý,
kính lọc phân cực có hai loại là Linear Polarizing Filters và Circular
Polarizing Filters. Circular được thiết kế để hệ thống đo sáng và tự
động lấy nét trên máy ảnh vẫn hoạt động tốt. Linear rẻ hơn nhiều nhưng
không sử dụng được với hệ đo sáng ống kính (TTL) và tự động lấy nét trên
đa số máy ảnh DSLR hiện tại.
Cũng
phải chú ý tới kích thước kính lọc sao cho phù hợp với ống kính đang sử
dụng. Có hai loại: screw-on (có ren xoáy vào thành ống kính) và loại
lắp đằng trước ống. Loại lắp đằng trước hữu dụng hơn vì có thể lắp vừa
hầu như mọi loại ống kính, tuy nhiên sẽ hơi cồng kềnh, mất thẩm mỹ vì
nằm "hớ hênh". Loại có ren xoáy chỉ lắp được trên những ống có đường
kính nhất định. Kích thước hỗ trợ kính lọc thường được ghi trên miệng
hoặc thân ống kính, dao động trong khoảng 46-82 mm đối với các máy ảnh
SLR thông dụng.
Bề
dày của kính lọc cũng ảnh hưởng tới lượng ánh sáng đi vào sensor. Loại
siêu mỏng (Ultra-thin) và một số filter đặc biệt có thể lắp vào ống góc
rộng mà không tạo ra vignetting. Tất nhiên, chúng sẽ đắt và thường không
hỗ trợ lắp thêm kính khác lên phía trên.
Trần Hạ - sohoa.net
|
|
|
Với
tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ cùng vòng đời ngắn ngủi của
mỗi chiếc máy ảnh, thị trường máy ảnh cũ đang rất sôi động. Người mua có
thể kiếm được những máy ảnh rẻ tiền mà còn gần như là cao cấp nhất do
người chơi "dùng lướt".
Dưới đây là một số kinh nghiệm khi chọn máy ảnh cũ.
Kiểm tra số lần chụp bằng cửa trập:
|
Màn trập của DSLR có tuổi thọ dao động từ 100.000 tới 150.000 lần. Ảnh: Goldfries.
|
Thông
thường cửa trập của các máy ảnh DSLR có tuổi thọ nhất định dựa trên số
lần sử dụng, được các hãng máy ảnh công bố (dao động từ 100.000 hay
150.000 lần). Vì thế, khi mua máy cũ, cần lưu tâm hỏi ngay người bán
hàng về thông số này.
Nếu
có điều kiện cầm thực tế, có thể kiểm tra sơ bộ thông số bằng cách chụp
và xem số thứ tự tên file ảnh. Nhưng cách này thực chất cũng không mấy
tin cậy do các máy ảnh sau này đều có thể đánh lại từ đầu số tên file.
Phương
pháp thứ hai là dùng các phần mềm từ các hãng thứ ba, như EOSInfo cho
máy Canon. Ngoài ra, các phần mềm đọc ảnh EXIF với các thông số siêu dữ
liệu kèm ảnh cũng có thể cho biết số lần cửa trập đã sử dụng.
Người
mua cũng nên kiểm tra qua những yếu tố mang tính trực quan như chụp thử
ở nhiều tốc độ cửa trập khác nhau để xem tiếng trập có đanh gọn hay
không, có những âm thanh bất thường nàohay có bị kẹt chỗ nào không.
Kiểm tra cảm biến:
Cảm
biến cũng cần được kiểm tra xem có bị dính bụi hay mạt bằng cách chụp
một hình toàn màu trắng (giấy, tường hay bầu trời) với độ mở hẹp (f/22
chẳng hạn), rồi phóng to trên máy tính xem có vết đen hay vết bẩn nào
không.
Hoặc cũng có thể kiểm tra bằng mắt thường bằng cách khóa gương lật và xem kỹ bề mặt cảm biến lộ ra có bị bụi hay xước.
Kiểm tra ống kính:
Nhiều
người bán có thể bán kèm ống kit theo thân máy cũ hoặc một ống kính nào
đó. Nếu muốn mua, trước tiên hãy kiểm tra kỹ bằng mắt thường xem ở phía
trước hay phía sau thấu kính có bị xước hay bụi. Nếu ống kính có vòng
chỉnh độ mở cơ học, kiểm tra xem các lá thép có di chuyển mượt mà hay
không.
Vấn
đề đáng lưu tâm nhất đối với chất lượng thấu kính là nấm mốc. Ngoài
việc xem xét trực tiếp, hãy khéo léo hỏi người bán về cách bảo quản ống
kính để xem họ có cất trong tủ chống ẩm không hay chỉ để trong túi máy
ảnh trong thời gian dài.
Nhớ
kiểm tra luôn cả vỏ bề ngoài hay vòng xoay ống kính. Nếu là ống zoom,
thử xoay ra xoay vào để xem chuyển động, sau đó lắp vào thân máy và chụp
thử với các khoảng lấy nét khác nhau để kiểm tra tốc độ và độ chính xác
của motor nét.
Kiểm tra màn hình LCD:
|
Cần kiểm tra cả bảo hành khi mua máy ảnh cũ. Ảnh: Zenfolio.
|
Màn
hình LCD của máy ảnh cũng cần phải được xem xét xem có dấu hiệu xây
xước hay hỏng hóc gì. Chụp thử những tấm hình với một màu duy nhất để
tìm xem liệu có điểm chết nào xuất hiện hay không.
Màu
sắc trên màn LCD này nếu kém tươi tắn hoặc hoạt động chập chờn chứng tỏ
máy cũng đã dùng một thơi gian nhiều hặoc được dùng quá liên tục. Đảm
bảo kiểm tra kỹ lưỡng để có thể xác định mức giá chính xác cho độ cũ mới
của máy ảnh.
Kiểm tra độ mòn:
Một
cách khác kiểm tra việc máy ảnh có được sử dụng thường xuyên hay không
là bạn có thể xem bề mặt của nút chụp ảnh có bị bóng nhẫy do mòn hay bị
bong tróc. Bạn có thể xem thêm cả nắp ống kính và dây đeo xem đã sờn
chưa. Do gần như được sử dụng cùng lúc với máy ảnh nên độ cũ của các chi
tiết này có thể góp phần giúp bạn xác định tuổi thọ thực sự của máy.
Kiểm tra linh kiện đi kèm:
Nhiều
người bán chỉ kèm những phụ kiện tối thiểu như pin, xạc… Hãy kiểm tra
xem những phụ kiện này có hoạt động không. Đôi khi gặp may bạn có thể có
được một bộ phụ kiện đầy đủ như mới, chưa kể còn được tặng thêm đầu đọc
thẻ, pin dự phòng hay thẻ nhớ dự phòng nữa.
Kiểm tra bảo hành:
Một
số cửa hàng bán đồ cũ có thể đưa ra những thời hạn bảo hành nhất định
tại cửa hàng. Mua trực tiếp từ cá nhân có thể không có bảo hành, nhưng
cũng có thể vẫn còn bảo hành chính hãng của nhà sản xuất. Hãy luôn nhớ
hỏi về chính sách bảo hành của sản phẩm cũ, nếu cần hỏi luôn cả hóa đơn
mua hàng trong trường hợp cần đối chiếu.
Với
một số kinh nghiệm trên cùng với một chút tính cẩn thận, bạn sẽ tìm
được chiếc máy ảnh ưng ý cho mình mà không quá lo lắng vấn đề ngân sách.
Nguyễn Hà - Sohoa.net
|
|
5 điều cần biết khi 'lên đời' với máy ảnh ống kính rời |
|
|
|
|
DSLR ngày càng được chọn mua nhiều hơn. Ảnh: Huy Đức.
|
Mùa hè là thời điểm nhiều người dùng mua camera cho
các chuyến đi du lịch. Với khách hàng lần đầu tiên chọn DSLR, sẽ có
những bất ngờ nhỏ khi chuyển từ model đơn giản sang sản phẩm lớn và
nhiều tính năng hơn. Cnet đã tổng hợp 5 điều để bạn có thể tìm hiểu trước khi quyết định mua.
Chọn thương hiệu
Quyết định lựa chọn thương hiệu liên quan tới nhiều
phụ kiện theo kèm. Mỗi nhà sản xuất đều cho các chuẩn ống kính, đèn
flash khác nhau. Theo đó, lens của Nikon không thể sử dụng cho Canon và
ngược lại.
Khác với máy ảnh compact, DSRL muốn chụp đẹp, cần
phải có ống kính chuyên dụng. Việc lựa chọn thương hiệu, cho phép bạn
mượn hoặc mua các lens phù hợp.
Ổn định hình ảnh
Sony, Olympus và một số nhà sản xuất khác tích hợp
cảm biến ổn định hình ảnh trong máy. Trong khi đó, Canon, Nikon lại đưa
lên ống kính. Người dùng Sony hay Olympus có thể sử dụng bất kỳ ống kính
nào mà vẫn có chức năng chống rung. Các ống kính tích hợp chức năng
chống rung đang ngày một rẻ dần. Tuy nhiên, người dùng Canon khi chọn
các lens cao cấp mã L sẽ tốn thêm nhiều tiền.
Thông thường, ống kính tích hợp chức năng ổn định
hình ảnh quang học làm việc tốt hơn cảm biến tích hợp. Tuy nhiên, bất kỳ
lens nào, khi chụp các bức hình có tốc độ thấp hơn 1/8 giây, thì người
dùng nên sử dụng chân đế.
Chức năng quay phim
Trước đây, chỉ có máy ảnh compact mới hỗ trợ quay
phim. Tuy nhiên, phần lớn các mẫu DSRL giới thiệu gần đây đều tích hợp
khả năng ghi hình HD hoặc full HD.
Hầu hết DSLR mới đều đi kèm với chức năng Live View.
Vì vậy, cho dù bạn là một nhà quay phim tập sự hay chỉ chụp hình, bạn
luôn luôn có tùy chọn để quay video. Tập tin video trên DSLR thường có
chất lượng tốt hơn trên các máy compact, nên chiếm nhiều dung lượng bộ
nhớ trên máy tính. Hơn nữa, nhiều máy DSLR tầm trung có xu hướng mau hết
pin hơn khi quay video hơn so với chụp hình.
Một số điều về máy ảnh compact cao cấp
Máy ảnh compact cao cấp được xem là cầu nối giữa máy
ảnh compact và DSLR. Tuy nhiên, nó không thể thay được ống kính và do
đó các máy này đều được đi kèm với ống kính siêu zoom có thể lên đến
42x. Với các nhà nhiếp ảnh muốn có chất lượng hình tốt hơn, thì DSLR vẫn
là lựa chọn vì cảm biến lớn hơn hầu hết các máy compact cao cấp. Ngoài
ra, chất lượng hình ảnh trên DSRL cũng tốt hơn, đặc biệt là ở chế độ ISO
cao.
Vài năm gần đây cũng xuất hiện một dòng máy ảnh mới
là máy ảnh ống kính rời không gương lật. Những mẫu máy ảnh này cho phép
thay đổi ống kính nhưng thiếu một tấm gương phản xạ. Các sản phẩm này
nhỏ và nhẹ hơn so với hầu hết các máy DLSR.
Bảo vệ thiết bị của bạn
Sau khi đầu tư rất nhiều tiền vào thiết bị, bạn cần
bảo vệ tốt nhất có thể cho chúng. Đầu tiên, người dùng cần đầu tư cho
một chiếc túi chắc chắn cho máy khi ra ngoài chụp hình. Chú ý, túi phải
thoải mái khi mang vác trong thời gian dài. Theo đó, loại đeo chéo phù
hợp khi lấy máy nhanh, nhưng với người thích phong cảnh, du lịch thì
balô là lựa chọn hợp lý.
Nếu bạn sống tại vùng nhiệt đới thì nên xem xét
nghiêm túc việc cất giữ các thiết bị trong một tủ hay hộp khô và kính
với các bịch hút ẩm. Điều này giúp bảo vệ ống kính và máy ảnh khỏi bị
nhiễm nấm.
Việc mua một chiếc máy ảnh DSLR đầu tiên có thể là
kinh nghiệm khó khăn hay hứng khởi điều này tùy thuộc vào sự chuẩn bị
của bạn. Trước khi trả tiền cho máy ảnh, bạn nên cầm và xem qua nó nếu
bạn cảm thấy thoải mái với tay cầm và trọng lượng của nó không.
Bạn nên làm thân với người bán hàng, bởi hầu hết họ
đều hiểu biết về DSLR và có thể sẽ cho những lời khuyên. Và có thể, họ
sẽ giảm giá cho bạn trong các lần mua sau.
|
Khai thác khả năng chống rung trên máy ảnh |
|
|
|
|
Sony SLT-A55, Olympus E-5 và Pentax K-5 là những máy ảnh áp dụng công nghệ ổn định hình ảnh bằng cảm biến.
|
Chế độ ổn định
hình ảnh trên thân máy và ống kính hiện nay cho phép có thể chụp được
những bức ảnh sắc nét mà không cần phải dùng tới chân máy kể cả khi ở
tốc độ rất thấp, thêm vào đó, các cảm biến siêu nhạy thậm chí còn cho
phép một số máy DSLR chụp trong đêm. Có vẻ như thời của chân máy đang
dần đi vào dĩ vãng.
Hầu hết các nhiếp
ảnh gia có kinh nghiệp đều biết rằng để chụp một bức ảnh tốt trong điều
kiện thiếu sáng, một chân máy vững chắc là công cụ tốt nhất trong
trường hợp này. Tuy nhiên với công nghệ ổn định hình ảnh ứng dụng trên
cả ống kính lẫn cảm biến trên các DSLR hiện đại, liệu chân máy có đang
dần trở nên lỗi thời và mất dần tính phổ biến trong vai trò hỗ trợ người
chụp trong những điều kiện thiếu sáng hiện nay?
Câu trả lời thực
ra không hề đơn giản bởi ngoài việc chân máy giúp máy ảnh ổn định khi
chụp trong điều kiện thiếu sáng, nó còn là một giá đỡ lý tưởng gánh trên
lưng các thân máy chuyên nghiệp cỡ lớn và các ống kính siêu tele với
kích cỡ cồng kềnh cố hữu của mình. Đó là còn chưa kể tới hàng loạt phụ
kiện đi kèm như đế pin, bộ phát Wi-Fi hay
một loạt các linh kiện mới xuất hiện trong thời đại máy ảnh DSLR quay
phim HD hiện nay như microphone, các thiết bị hỗ trợ lấy nét hay các đèn
quay video chuyên dụng. Cùng với sự phát triển các đầu khớp bi lỏng
chuyên dụng để quay lia video gắn trên chân máy, chân máy vẫn giữ được
mức độ phổ dụng của mình, dù vai trò của nó đang dần xa rời khỏi chức
năng ổn định hình ảnh cho máy trong điều kiện thiếu sáng thuở ban đầu.
|
Canon EF 70-200mm ƒ/2.8L IS USM, Sigma
70-300mm ƒ/4-5.6 DG OS and Tamron 18-270mm ƒ/3.5-6.3 Di II VC là những
ống kính có chống rung.
|
Ổn định hình ảnh trên ống kính hay trên cảm biến hiệu quả hơn?
Nếu là một nhiếp
ảnh gia hay di chuyển, chắc hẳn bạn sẽ luôn muốn hành trang thật gọn
nhẹ, và vì thế, chân máy sẽ là lựa chọn cuối cùng nếu bạn bắt buộc phải
mang theo. Lựa chọn được ưu tiên trong trường hợp này sẽ là những ống
kính tích hợp sẵn cơ chế chống rung quang học, hoặc ít nhất là một thân
máy có cơ chế chống rung cảm biến.
|
|
Hai
hệ thống ổn định hình ảnh này hoạt động hiệu quả ra sao và cơ chế nào
tốt hơn thực ra còn tùy thuộc vào rất nhiều yếu tố liên quan như hãng
máy ảnh bạn đang dùng, các đặc điểm vật lý mỗi người và đối tượng mà bạn
chụp. Hiện các nhà sản xuất như Canon, Nikon, Panasonic hay Sigma chỉ
áp dụng hệ thống ổn định hình ảnh lên ống kính (với các ký hiệu như IS,
VR, Mega O.I.S và OS) cho các máy DSLR của mình. Còn các hãng khác như
Olympus, Pentax hay Sony lại lựa chọn ứng dụng tính năng chống rung dựa
trên cảm biến. Cần lưu ý một điều là, ngay cả khi bạn mua một ống kính
của hãng thứ ba có tính năng chống rung quang học, khi lắp trên các máy
cũng có tính năng chống rung, bạn sẽ chỉ sử dụng được một trong hai cơ
chế chống rung chứ không sử dụng cùng lúc cả hai được.
Theo lý thuyết,
cả hai hệ thống ổn định hình ảnh có thể cải thiện từ 2 đến 4 stops so
với tốc độ tối thiểu cho phép chụp cầm tay mà máy vẫn không bị rung.
Điều này có nghĩa là nếu tốc độ thấp nhất cho phép là 1/200 giây thì khi
áp dụng cơ chế ổn định hình ảnh, người chụp vẫn có thể chụp một bức ảnh
với tốc độ xuống tới 1/12 giây (4 stops) mà ảnh vẫn không bị mờ nhòe.
Tuy nhiên, trên thực tế sử dụng, các nhiếp ảnh gia nhiều kinh nghiệm cho
biết, kể cả các ống kính chống rung tốt nhất hay cảm biến chống rung
hiệu quả nhất thì độ tối ưu cũng chỉ trong khoảng chừng 3 stops, cộng
thêm điều kiện là các ống sử dụng có tiêu cự phải dài hơn 100mm. Với các
ống thường hay góc rộng, mức độ cải thiện chất lượng nhờ tính năng ổn
định hình ảnh sẽ khó nhận biết hơn. Thêm vào đó, lợi thế của cơ chế ổn
định hình ảnh có xu hướng giảm dần khi tốc độ cửa trập tăng lên. Ví dụ,
nếu người chụp với ống 200mm và để ở chế độ 1/400 giây có thể bắt được
đối tượng chuyển động mà không bị rung thì khi người chụp tăng tốc lên
1/600 giây để tạo hiệu ứng đông cứng chuyển động, vai trò của ổn định
hình ảnh trong trường hợp này sẽ khó có thể nhận thấy rõ rệt.
Quy tắc tốc độ tỷ lệ nghịch
Trước
khi bật chế độ ổn định hình ảnh, bạn cần phải biết tốc độ thấp nhất
người chụp có thể cầm máy chụp mà ảnh vẫn không bị rung. Tốc độ này được
tính toán trên nguyên tắc tốc độ tỷ lệ nghịch: nghĩa là 1/độ dài tiêu
cự. Ví dụ, nếu người chụp với máy ảnh full-frame và ống zoom để ở tiêu
cự 200mm, tốc độ thấp nhất cho phép chụp không rung sẽ là 1/200 giây.
Tất nhiên ở đây giả thuyết là ánh sáng đủ cho phép chụp ở tốc độ này mà
vẫn không bị thiếu sáng.
Ở
tốc độ tối thiểu này trở lên, hình ảnh thu được phải không bị rung khi
phóng ảnh ở kích cỡ 10 x 15cm hoặc 13 x 18cm. Dưới tốc độ tối thiểu này,
hình ảnh có thể hơi mờ do máy ảnh bị rung.
Một
vài yếu tố khác có thể tác động tới nguyên tắc này. Ví như nếu DSLR cảm
biến APS-C hay Four Thirds, bạn sẽ phải nhân tỷ lệ để tương đương với
chuẩn full-frame (nhân crop factor lên 1,5x, 1,6x hay 2,0x tùy cảm
biến). Ví dụ, máy Nikon D5100 khi lắp ống kính 200mm thì tiêu cự trên
thân máy sẽ là 300mm và tốc độ tối thiểu không rung lúc này sẽ là 1/300
giây.
Rung
máy hay không còn tùy thuộc vào trọng lượng thân máy, khả năng điều hòa
nhịp thở người chụp, cách thức cầm máy và các yếu tố môi trường khác
nữa. Vì thế tốc độ tối thiểu chỉ là chỉ số để người chụp tham khảo trong
tương quan với hàng loạt thông số khác có liên quan đề cập ở trên.
|
Các công nghệ ổn
định hình ảnh cũng có tác động nhất định đến cách thức bạn chụp và số
tiền bạn đầu tư cho ống kính. Máy ảnh với công nghệ ổn định hình ảnh cảm
biến hoạt động tốt với bất kỳ ống kính tương thích nào, kể cả các ống
cũ. Còn các ống kính có cơ chế chống rung lại thường đắt hơn các ống
kính không chống rung.
Thông thường, chỉ
có ống kính có cơ chế chống rung mới có chức năng xem trước tác động ổn
định hình ảnh qua khung ngắm quang. Tuy nhiên, một số thân máy chống
rung cảm biến cũng cho phép xem trước tác động chống rung trong chế độ
LiveView qua LCD hay khung ngắm điện tử. Một số người thì cho rằng chế
độ xem trước hiệu ứng chống rung rất hiệu quả, trong khi số khác lại cho
rằng nó chỉ làm cho máy ảnh tốn thêm pin.
Các ống kính
chống rung cao cấp thường được trang bị các chế độ lia hoặc công tắc
chuyên dụng khi cần chụp lia bám đối tượng. Tính năng này cho kết quả
xuất sắc nhờ việc bỏ qua chuyển động ngang và chỉ giảm rung theo chiều
dọc. Một số ống kính còn có thể nhận biết máy ảnh đang được đặt trên
chân máy và tự động tắt chế độ chống rung để tiết kiệm pin.
Ở chế độ quay
phim, có thể nói cả hai hệ thống chống rung đều phát huy hiệu quả xét về
một góc độ nào đó, dù rằng công nghệ chống rung quang học trên ống kính
có xu hướng yên tĩnh hơn do ít nhất chúng cũng ở vị trí xa micro thu âm
tích hợp trong máy ảnh hơn. Hiện Panasonic đã sản xuất thế hệ ống zoom
mới với cơ chế chống rung gần như hoàn toàn yên lặng.
ISO cũng góp phần thay đổi vai trò ổn định hình ảnh của chân máy.
Cả ống kính với
độ mở lớn hay ISO đặt ở mức cao cũng đều giúp người chụp đẩy tốc độ chụp
nhanh hơn trong điều kiện ánh sáng yếu nhất định. Tuy nhiên, các ống
tele với độ mở lớn thường rất đắt và hiếm khi đưa được 2 stops so với
các ống kính rẻ tiền hơn. Nhưng lợi thế 2 stops này (ví dụ f/2.8 và
f/5.6) sẽ có giá trị nếu bạn là ngườI chuyên chụp ánh sáng yếu hoặc nếu
bạn muốn xóa thêm phông nên bằng việc sử dụng độ mở lớn.
Tăng giá trị ISO
trên máy ảnh để cải thiện khả năng chụp trong điều kiện ánh sáng yếu
cũng có thể giúp bạn có thêm một vài stops lợi thế bên cạnh các ống kính
độ mở lớn hay công nghệ ổn định hình ảnh. Nhiều máy ảnh "ngắm là chụp"
hiện nay lấy giá trị ISO cao làm thành chế độ ổn định hình ảnh "điện tử"
khi ở chế độ tự động toàn phần. Tuy nhiên, cái giá phải trả cho việc
tăng ISO là chất lượng ảnh sẽ bị suy giảm. Độ suy giảm bao nhiêu còn tùy
thuộc vào máy ảnh và bản thân cảm biến của máy nữa. Hầu hết các máy
DSLR hiện tại cho phép chỉnh ISO để cải thiện từ 3 tới 5 stops so với
mức tiêu chuẩn trước khi chất lượng ảnh trở nên quá tệ. Ví dụ, một máy
ảnh APS-C trung bình với ISO 100 là tiêu chuẩn, bạn có thể tăng giá trị
ISO lên mức 800 (3 stops) hoặc 3200 (5 stops) mà ảnh thu được vẫn có thể
thuộc dạng chấp nhận được.
Kiểm tra tốc độ tối thiểu khi chụp không rung
Do
mỗi người là khác nhau nên tốt nhất cần thiết kiểm tra tốc độ tối thiểu
của riêng mình trên từng ống kính bạn có. Quá trình thực hiện rất đơn
giản. Tìm một đối tượng có đường viền thẳng (như cây với cành chĩa
ngang), đặt máy ảnh ở chế độ ưu tiên cửa trập và chụp một loạt các bức
ảnh với tốc độ giảm dần. Khởi đầu với tốc độ 1/1.000 giây và cuối cùng
dừng ở mức khoảng một phần tư giây. Mở ảnh bằng máy tính và zoom đến tận
từng điểm ảnh và bạn sẽ nhận thấy các bức ảnh sẽ có xu hướng mờ dần khi
tốc độ giảm dần. Ở một tốc độ nào đó, độ mờ này sẽ nhìn rõ và bạn sẽ
lấy tốc độ trước đó là tốc độ tối thiểu của bạn. Lưu ý đây là tối thiểu,
còn thông thường tốt nhất hãy chụp với tốc độ nhanh nhất có thể, nếu
không sẽ cảm thấy hối tiếc khi đi chụp cả ngày và đến lúc về xem lại các
bức ảnh lại bì nhòe mờ chỉ vì máy bị rung do chụp chậm.
|
Gần đây, các DSLR
cao cấp như Canon EOS-1Ds Mark IV và Nikon D3S đã cho thấy công nghệ
cảm biến và chíp xử lý hình ảnh trên các máy ảnh số hiện đại có khả năng
đẩy ISO vượt ra ngoài các giới hạn thông thường từ trước tới nay. Cả
hai DSLR đều có thể đặt giá trị ISO lên tới 102.400, cho phép máy ảnh
chụp trong điều kiện gần như tối hoàn toàn so với chỉ 3.200 là cao nhất
thời ISO máy phim (kể cả cộng thêm xử lý hậu kỳ cũng chỉ tới được
12.800). Rõ ràng, với mức giá trị ISO thêm tới gần 100.000 (cho dù ở mức
này ảnh khá nhiễu hạt và nhiễu màu), các máy DSLR mới có đủ khả năng
chụp với ISO 6.400 (6 stops hơn ISO 100) và 12.800 (7 stop) mà chất
lượng ảnh vẫn đủ kinh ngạc, trong nhiều trường hợp thậm chí còn không hề
thua kém các mức ISO 800 và 1.600 ở các phiên bản cùng hãng đời trước.
Khi kết hợp toàn
bộ các lợi thế: từ ống kính chống rung, độ mở lớn, ISO cao, bạn có thể
đạt được một mức từ 7 tới 10 stop với các phiên bản APS-C mới nhất và
tới 13-14 stop khi chụp với các máy chuyên nghiệp. Hãy thử tưởng tượng
lợi thế chụp thiếu sáng sẽ là như thế nào khi so sánh với các máy phim
hay máy số thường với ISO 100 và một ống kính không chống rung có độ mở
f/4 hay f/5.6.
Lợi thế này thực
sự không chỉ còn nằm ở những thông số mà đã giúp các nhiếp ảnh gia chỉ
cần cầm tay vẫn có thể chụp ảnh và quay phim ở những điều kiện vô cùng
tối, điều kiện mà trước đây với máy phim hay kể cả với những máy số đời
đầu nếu không có chân máy hay đèn phụ sẽ là điều không thể.
Chống rung trên ống kính và trong thân máy
Cả
hai hệ thống chống rung trên ống kính hay bằng cảm biến đều hoạt động
trên cùng một nguyên tắc cơ bản là dựa vào cảm biến góc hồi chuyển trong
ống kính hoặc thân máy nhận biết các chuyển động của máy và chuyển các
dữ liệu này tới bộ xử lý. Bộ xử lý diễn dịch các dữ liệu chuyển động,
kết hợp với các thông tin thu được từ tiêu cự ống kính và tính toán góc
bù cần thiết, sau đó chuyển tín hiệu tới hệ thống ổn định hình ảnh để
chuyển động thấu kính ổn định hoặc cảm biến theo một giá trị và hướng
đúng bằng hướng đã bị dịch chuyển.
Mỗi
hệ thống ổn định của mỗi hãng lại khác nhau về mặt chi tiết, nhưng tự
trung lại đều nhằm mang lại một kết quả chung là người chụp có được một
bức ảnh sắc nét. Các hệ thống ổn định hình ảnh trước đây thường cho phép
tận dụng được lợi thế khoảng 2 stop (ví dụ từ tốc độ trung bình 1/60
giây xuống còn 1/15 giây) thì ngày nay một số hệ thống chống rung mới
cho phép bù tới 4-5 stop (cho phép bạn chụp với tốc độ xuống tới một
phần tư hoặc một phần hai giây).
Canon
giới thiệu hệ thống chống rung quang học của mình với ống EF 75-300mm
ƒ/4-5.6 IS USM từ những năm 1995. Ngày nay cùng với hãng này, các hãng
đều có những ống chống rung tích hợp với các ký hiệu riêng như Canon
(IS), Nikon (VR), Sigma (OS) và Tamron (VC). Konica Minolta thì giới
thiệu hệ thống chống rung cảm biến trong phiên bản Maxxum 7D năm 2005 và
nay dù không còn sản xuất DSLR nữa nhưng Sony, hãng mua Konica Minolta
lại đã kế thừa công nghệ này. Olympus và Pentax cũng có những máy DSLR
sử dụng công nghệ chống rung cảm biến.
Chế
độ chống rung cũng được cải tiến theo từng thời kỳ. Trước đây cơ chế
chống rung thường chỉ có một chế độ, ngày nay các ống kính như của Canon
đã tiến tới có 2 chế độ (Mode 1 với cơ chế bù cả rung ngang và dọc và
Mode 2 chỉ bù theo một hướng, dùng trong bám nét đối tượng chuyển động).
Nikon cũng có các ống kính chống rung VR thông thường và chống rung VR
chủ động, cho phép bù rung khi người chụp đang chuyển động hoặc đang ở
trên xe.
|
Nguyễn Hà - sohoa.net
|
|
|
No comments:
Post a Comment