Sunday, October 6, 2013

Như Chuyện Thần Tiên

Như Chuyện Thần Tiên

Mỹ Lan
Mỹ Lan
Tôi tên là Ðào Duy Kỳ, dòng dõi Ðào Duy Từ, là một Trung úy trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp trường Võ Bị Thủ Ðức, ra đơn vị tác chiến khoảng hai năm thì ngày 30-4-1975  đến. Cũng như mọi sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa, tôi đã bị giải ra Bắc và chịu tù đầy qua các trại Sơn La, Yên Bái, Lạng Sơn…
Khoảng năm 1983, chúng tôi bị chuyển trại về Vĩnh Phú. Một hôm nhóm tôi gồm 20 người đi đốn cây trong rừng. Buổi trưa là giờ ăn, tôi bèn đi sâu vào rừng để tìm chuối rừng hay rau rừng để “cải thiện.” bữa ăn Bỗng nhiên tôi thấy có một cánh tay phụ nữ trắng trẻo giơ lên vẫy tôi. Tôi nhìn quanh rồi bước đến thì một người con gái hiện ra ôm lấy tôi, kéo tôi vào một cái hang ở dưới một gốc cây. Nàng ôm tôi và nói bằng tiếng Việt rất rõ ràng, rành mạch:
“Em yêu anh! Anh yêu em đi.”
Tôi không kịp nghĩ gì cả, tôi ôm nàng, cởi vội y phục nàng.Tôi như con hổ đói vồ con hươu tơ. Tôi như anh con trai mới lớn lần đầu được ôm hôn một cô gái trắng trinh. Da thịt nàng thơm mùi gái trinh. Tôi đắm vào một thế giới đầy cảm xúc tuyệt vời.
Xong việc, nàng ngồi dậy, hôn tôi và bảo tôi:
“Anh đi nhanh đi. Em tên là Mỹ Lan.”
Tôi nói:
“Cảm ơn em đã đến, đã cho anh những giây phút tuyệt vời.”
Tôi ôm nàng nhưng không nói tên tôi vì tôi không mong được gặp lại nàng lần thứ hai trong đời, việc gặp lại cô gái rất khó đối với một tù nhân giữa núi rừng âm u! Hơn nữa, tôi sợ câu chuyện có thể bị vỡ lỡ mà mang tai họa cho tôi và nàng.
Trước khi ra khỏi hang, tôi nhìn ngược nhìn xuôi lỹ lưỡng. Thấy không có ai, tôi nhanh nhẹn bước ra rồi tiếp tục công việc như chẳng có việc gì xảy ra. Mấy hôm sau, khi đi đốn cây rừng, tôi cố ý trở lại nơi này, nhưng không thấy bóng dáng nàng hay một vết tích nào của nàng. Tôi cố ý lắng nghe trong trại có tin tức gì một người con gái nào bị bắt ở gần trại không, nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói gì cả. Tôi mừng nàng được an toàn. Tôi phục nàng can đảm, dám xông pha hiểm nguy. Nếu chuyện vỡ lỡ, nàng có thể bị khổ về nhiều tội.
Nàng có thể mang tội gián điệp và bị tù mãn kiếp, héo úa một đời xuân. Tôi bị tù đã đành, nhưng nàng tại sao lại mạo hiểm? Ngoài đời thiếu gì trai tơ? Thiếu gì đàn ông? Tôi không thể hiểu nguyên do nào mà nàng tìm đến hiến dâng trinh tiết của nàng cho tôi như thế! Nàng là con gái miền núi, đâu phải ngưởi Tây phương mà có lối “yêu cuồng sống vội” như vậy? Quả thật tội không hiểu. Dẫu nàng là người thế nào đi nữa, tôi yêu nàng, tôi trân quý nàng. Nàng là một vị tiên hiện đến trong đời tôi. Nàng đến một lần và chỉ ban ân cho tôi một lần thôi! Tôi nhớ nàng mãi.
Tôi nhớ làn da trắng ngà của nàng, hương thơm trên thân thể nàng, nhất là nốt ruồi bên mép trái, đặc biệt là một nốt ruồi son giữa ngực của nàng. Nàng chợt đến rồi chợt đi như con bướm vàng trong giấc mộng. Thỉnh thoảng tôi nhớ đến nàng. Trong giấc mơ, tôi thấy nàng cùng tôi âu yếm.Tôi thắc mắc không hiểu nàng là ai. Nàng là một cô gái Mường hay cô gái Kinh? Nàng là một sơn nữ hay một cán bộ ở trong vùng? Nàng lãng mạn muốn tìm của lạ miền Nam hay nàng là một cô gái bụi đời? Dẫu sao, đối với tôi, nàng là một vưu vật!

Tuần sau, chúng tôi được lệnh chuyển trại về Sơn La. Việc di chuyển này làm cho lòng tôi thêm chua xót.Thế là tôi xa cách Vĩnh Phú, không còn cơ hội gặp lại Mỹ Lan.
Năm 1985, tôi được phóng thích.
Trước đây, tôi nghe nói một số sĩ quan Việt Nam Cộng Hòa bị giải ra Bắc bằng xe lửa đã bị dân chúng ngoài Bắc ném đá. Nhưng lần này trên xe lửa từ Hà Nội về đến Quảng Bình , chúng tôi không thấy có chuyện gì xẩy ra. Khi tầu về đến ga  Quảng Trị, rồi ga Huế, ga Quảng Nam, chúng tôi xuống tàu đi lại cho giãn gân cốt, thì được đồng bào vồn vã hỏi chuyện, nắm tay, kẻ cười, người khóc làm cho chúng tôi rất xúc động. Khi chúng tôi lên tàu, đồng bào ném quà bánh cho chúng tôi rất nhiều. Tình cảm đồng bào quê hương miền Nam rất nồng thắm với những đứa con bất hạnh như chúng tôi!
Sang năm 1986, tôi cùng anh chị em trong gia đình tổ chức vượt biên, may mắn chúng tôi đến được Paulo Bidong; năm 1987, tôi được đi định cư ở Hoa Kỳ. Tại Houston, tôi vừa đi làm vừa ghi tên vào đại học. Sau mấy năm, tôi đỗ bằng kỹ sư điện toán và làm việc cho hãng Corel. Sau tôi gặp Mai Linh, người Mỹ Tho, chúng tôi kết hôn.
Thỉnh thoảng tôi nhớ đến kỷ niệm Vĩnh Phú, Mỹ Lan đến rồi đi như trong giấc mộng Liêu Trai. Tôi nghĩ nàng có lẽ đã lấy chồng, hằng ngày vợ chồng mang gùi vào núi bẻ măng, đào khoai, nhổ sắn như hình ảnh những người dân thiểu số mà tôi thường thấy khi đi Ðà Lạt chơi. Tôi thấy bóng nàng ẩn hiện trong núi rừng Vĩnh Phú và lòng tôi cảm thấy luyến tiếc bâng khuâng. Tôi nghĩ cuộc đời nàng sẽ héo úa trong chốn rừng sâu. Giỏi lắm thì nàng sẽ thành một cán bộ thương nghiệp hay Hợp tác xã trong bản làng, tay dắt con lớn, vai địu con nhỏ, ngực teo, mặt mũi xanh xao như bao cô nàng Thổ Mán nơi thượng du miền Bắc. Hay cao hơn nàng là một nữ đảng viên cấp xã, cấp huyện, mang áo bộ đội bỏ ngoài quần, đội nón cối, đi dép râu, vai mang săc-cốt, thân gầy ốm, dáng lom khom. Những hình ảnh của nàng, lúc ẩn lúc hiện trong tâm trí tôi làm thành một kho kỷ vật êm đềm.
Cuộc hôn nhân của của Mai Linh và tôi rất hạnh phúc. Chúng tôi sống bên nhau được ba năm thì Mai Linh bị bệnh ung thư rồi mất. Tôi buồn rầu mấy năm trời. Hình ảnh Mỹ Lan lại hiện đến trong tôi rất ngọt ngào và thần bí. Hương thơm của thân thể nàng như còn vương vấn trong mũi tôi và thân thể tôi. Tôi có ý định về Việt Nam du lịch, thăm lại Vĩnh Phú, tìm lại mối tình xưa. Nhưng tôi lại không dám vì cuộc đời như nước chảy mây trôi, thuyền trôi mà bến bờ cũng đổi thay, quá khứ e đã tan vỡ như xác pháo mùa Xuân, không thể nào tìm lại được. Nếu đào bới quá khứ,chỉ thêm đau lòng như Lưu Nguyễn khi trở lại quê xưa!
Các bạn khuyên tôi nên đi du lịch một chuyến để quên sầu. Tôi mua vé máy bay đi du lịch Ðức, Pháp, và Ý vì Tây phương đối với tôi có nhiều quyến rũ. Hơn nữa, tôi có bà chị họ định cư tại Tây Ðức. Chị tôi có con du học tại Tây Ðức trước 1975, đỗ tiến sĩ, sau 1975 xin ở lại, rồi bảo lãnh gia đình qua đây. Khi tôi đến Tây Ðức, gặp anh chị và các cháu, tôi vui mừng hết sức. Các cháu lái xe đưa tôi đi xem cảnh trong thành phố. Một hôm các cháu đưa tôi đi ăn phở ở một tiệm phở của người Việt nổi tiếng là ngon nhất tại đây. Khi bà chủ tiến tới chào hỏi chúng tôi thì tôi ngạc nhiên hết sức, vì nàng là Mỹ Lan, người tình một khắc mà tôi ghi nhớ ngàn đời. Bên môi trái của nàng vẫn in rõ một nốt ruồi duyên. Tôi  bàng hoàng đứng dậy, kéo nàng ra một bên, hỏi nhỏ:
- Phải chăng em là Mỹ Lan? Chúng ta đã gặp nhau tại trại tù Vĩnh Phú?
 Sau một phút ngỡ ngàng, nàng  nhận ra tôi. Tôi hỏi nàng và kể lể mọi sự. Chúng tôi ôm nhau mà khóc. Nàng giao công việc cho người nhà rồi đưa tôi về nhà nàng. Còn tôi, tôi quay lại bảo các cháu tôi:
“Bà chủ nhà hàng là bạn quen của cậu ở Việt Nam. Bà ấy mời cậu lại nhà. Các cháu về trước, cậu sẽ về sau”.
Tôi theo nàng ra xe.
Nhà nàng ở tại một khu yên tĩnh trong thành phố. Nàng ở một mình với con trai. Các anh em nàng có nhà riêng. Người thì đi làm các hãng tư, người thì phụ giúp nàng trông coi tiệm phở. Khi còn hai chúng tôi, nàng kể sự tình. Quê nàng ở Sơn Tây, tổ tiên nhiều người đỗ cử nhân, tiến sĩ, làm quan  ở triều Lê, triều Nguyễn. Năm 1954, cộng sản về Hà Nội, mở cuộc cải cách ruộng đất và cải tạo công thương nghiệp, gia đình nàng bị quy là địa chủ. Mẹ nàng và anh em nàng thu vén tài sản, bỏ trốn lên mạn ngược. Ban đầu, gia đình nàng giả làm thương gia lên buôn bán để tìm hiểu, sau đó làm nhà cửa gần bản Mường, lán Thổ tại Vĩnh Phú.
Gia đình nàng ăn mặc, nói năng và sinh hoạt  theo phong tục bản Mường, Mán. Nhờ khéo giao thiệp, gia đình nàng được cảm tình dân chúng nơi đây, được họ giúp đỡ và che chở. Nàng nghe tin các sĩ quan miền Nam bị đưa ra giam giữ tại Vĩnh Phú, là một nơi gần bản Mường của nàng. Tuy chưa gặp những người miền Nam, nhưng lòng nàng chan chứa cảm tình với các tù nhân miền Nam vì họ với nàng  cùng chung cảnh ngộ, là nạn nhân của chế độ cộng sản. Nàng quyết gặp một sĩ quan miền Nam và sẵn sàng hiến thân cho chàng ta để giữ lấy dòng máu trong sạch của người quốc gia. Nàng cam tâm mang tiếng “không chồng mà chửa” còn hơn ở góa trong rừng thẳm, hoặc phải lấy anh Mán, anh Thổ hay anh cộng sản làm chồng! Nàng đã nghiên cứu địa hình địa vật, và đã đào hang ẩn náu đưới một gốc cây trong rừng, nơi tù cải tạo thường tới lao động. Nàng đã chờ đợi vài ngày đêm; cuối cùng nàng đã gặp tôi, và đã toại nguyện.
Sau cuộc ân ái đầu tiên và duy nhất ấy với người tù khổ sai VNCH là tôi, nàng có thai. Lúc này, mẹ nàng đã mất, anh em nàng chung sống với nhau. Hằng ngày, anh em nàng phải tô mặt cho đen thêm một chút để tránh cặp mặt cú vọ của cộng sản, mặc dầu nơi đây hoang vắng, người Kinh ít khi lên đây. Gia đình nàng cũng theo nếp “du canh” của người thiểu số mà di chuyển nơi này nơi nọ. Cứ vài năm là một lần di chuyển, như vậy cũng có lợi là tránh được sự theo dõi của công an. Nhân dịp người Hoa bị đánh đuổi trong vụ nạn kiều, anh em nàng theo họ sang Hoa Lục, rồi sang Hongkong.
Tại đây, chính phủ Hongkong bắt anh em nàng vào trại tập trung. Sau một thời gian, gia đình nàng được phái đoàn Tây Ðức nhận cho định cư tại Tây Ðức. Anh em nàng lúc đầu xin làm công nhân cho các hãng xưởng, sau cả nhà quyết định góp vốn mở hàng phở, và anh em nàng đã thành công. Khách hàng vào ra nườm nượp, người Việt Nam đã đành mà người Ðức, Pháp, Mỹ cũng thích ăn phở của nhà nàng. Con trai nàng nay đã lớn, được mười tuổi, đang theo học trung học và nàng thì vẫn phòng không chiếc bóng. Còn tôi, tôi cũng kể đời tôi từ nhỏ cho đến nay, qua bao chuỗi ngày sóng gió và đau thương.
 Chúng tôi ngồi nói chuyện một hồi thì nàng rủ tôi theo nàng đón con đi học về. Chúng tôi ra xe do nàng lái, đến chờ đợi ở cổng trường. Vài phút sau thì học sinh tan học. Con nàng ra xe. Nàng giới thiệu tôi với con nàng:
- Hưng, đây là bố ruột của con từ Mỹ sang tìm mẹ.
Tôi thấy Hưng giống tôi nhưng cao to hơn, trắng hơn. Tôi ôm con tôi và con tôi cũng ôm tôi trong xúc động. Tôi rất mừng vì bất chợt mà tôi đã có một đứa con trai khôn lớn.
Tối hôm đó, Mỹ Lan và tôi sống trong đêm tân hôn. Ðêm đó cũng là đêm thứ hai tôi thấy lại bộ ngực trần trắng như ngọc với một nốt ruồi son nằm ở giữa hai gò bồng đảo của nàng.
Tôi ngỏ lời xin cưới nàng làm vợ, nàng sung sướng cười trong hàng nước mắt. Tôi hỏi nàng muốn sang Mỹ hay ở lại Ðức, nàng trả lời nàng muốn sang Mỹ cùng tôi chung sống. Mấy tháng sau, chúng tôi tiến hành thủ tục hôn nhân và bảo lãnh. Ðám cưới của chúng tôi được tổ chức đơn giản tại Ðức, gồm anh chị họ và các cháu của tôi, cùng anh em nhà nàng với bạn bè. Sau đó, vợ chồng và con chúng tôi về Mỹ, chúng tôi sống một đời tự do và hạnh phúc.
Sơn Trung
Quỳnh Mai chuyển
CTHÐ: Tôi tìm được đoạn truyện trên đây trên Web Internet. Thấy truyện hay quá tôi đặt tên truyện là “Như Chuyện Thần Tiên.” Tôi tưởng đó là chuyện thật. Rồi tôi thấy chuyện không thể, chuyện không phải là chuyện thật. Ở đời này, đời xưa, đời sau làm gì có cuộc Tình nào Thần Tiên như thế.
Rồi tôi nghĩ sao lại không? Biết đâu đó chẳng phải là chuyện thật? Nếu đó không phải là Chuyện Thật, tôi thán phục ông bạn nào sáng tác ra Chuyện.  Tưởng tượng của ông bạn phong phú, lãng mạn, tuyệt vời hơn tôi nhiều lắm.
Mà tại sao ta lại không cho đó là Chuyện Thật? Chuyện làm cho Tim Ta ấm lại, Chuyện làm cho Ta thấy Ðời bớt u ám, bớt sầu buồn. Chuyện cho ta thấy Con Người không chỉ giết nhau, bỏ tù nhau, Con Người Yêu Nhau dza dzít. Chuyện làm ta yêu Ðời, yêu Người. Chuyện làm cho ta trong một khoảnh khắc thời gian, trở về cái tuổi ta thơ ấu, khi ta ngây thơ, ta tin tất cả những chuyện Tình Ðẹp ta nghe kể đều là chuyện thật. Ta còn đòi hỏi gì hơn ở một Chuyện Kể??

Buôn bán chuột ở miền Tây

image
Cả trăm tấn chuột từ Campuchia được tuồn về Việt Nam mỗi ngày, sau đó được các đầu nậu làm thịt, lột da, mổ bụng rồi mang tiêu thụ khắp miền Tây.

image
image
Những ngày này, nước lũ về ngập các cách đồng ở An Giang, Đồng Tháp và Kiên Giang. Đây cũng là mùa chuột đồng xuất hiện số lượng lớn. Tại cửa khẩu Khánh Bình, An Phú (An Giang) giáp với xã Chray Thom, huyện Co Thum, tỉnh Kandal (Campuchia) có những vựa chuột cả trăm tấn được nhập từ Campuchia về. 

image
Sau khi xuồng chở chuột cập bờ phía An Phú, những lồng chuột này được chuyển về hàng chục điểm tập kết ở thị trấn Long Bình, hòa nhập với đàn chuột Việt Nam đã có mặt từ trước.

image
Người dân ở An Giang đua nhau đi bắt chuột bán cho các thương lái...

image
Và lúc này, không ai còn phân biệt được đâu là chuột nội, đâu là chuột ngoại nhập.

image
image
Ngoài các thương lái có điều kiện đến biên giới để thu mua chuột tận gốc, thì tại các địa phương giáp biên như An Phú, Châu Phú, Tịnh Biên của An Giang có cả trăm cơ sở chuyên thu gom chuột đồng. Ông Trương Văn Hùng, một trong những đầu mối thu gom chuột lớn nhất ở huyện Châu Phú, cho hay: "Có ngày doanh thu mua bán chuột hơn 50 triệu đồng".

image
Cơ sở của ông Hùng giúp tạo công ăn việc làm cho trên 30 nhân công.

image
image
Những con chuột được bắt ra ngoài, đập chết rồi chất thành từng đống chờ mổ thịt.

image
image
Nhân công tập trung lột da, mổ bụng chuột.

image
Em Nguyễn Hoàng Em, 12 tuổi ở Châu Phú (An Giang), mỗi ngày đi lột da chuột kiếm được 30.000 đồng.
image
image
Chuột bị chặt đầu, mổ bụng được bỏ vào rổ chờ lột da. Những người phụ nữ ở đây không ai sợ... chuột.

image
image
Chuột thành phẩm được ướp đá chuẩn bị mang đi giao cho các nhà hàng, quán nhậu. Hiện chuột sống loại I (cống nhum) có giá giá 60.000 đồng/kg, loại II (chuột đồng) 25.000 - 40.000 đồng/kg (tùy loại lớn nhỏ).

image
Chuột quây lu lên bàn nhậu, đây là đặc sản ở miền Tây.

Phụ nữ miền Tây kiếm tiền

image
Bà Nguyễn Thị Nở, ở An Giang
Rất nhiều phụ nữ vùng sông nước miền Tây đã chọn làm những công việc hết sức mạo hiểm để kiếm tiền, như nuôi rắn độc, “săn” tắc kè, bù cạp, chuột… Dù biết việc mình làm chỉ cần sơ xuất nhỏ có thể mất mạng như chơi, nhưng những phụ nữ chân yếu tay mềm này lại không chút sợ sệt. “Mùa nào thức ấy”, khi việc đồng áng kết thúc, lũ về là họ theo con nước bắt rắn, săn chuột, rồi lập hẳn những chợ hàng “độc” bán công khai ở nơi đông người qua lại, như ven chợ, các khu du lịch. Cũng có người sang tận Campuchia nhập hàng về để bán cho du khách.
image
Chị Năm, ở Tịnh Biên-An Giang, đang bắt hàng chục con bọ cạp trên hai bàn tay trần mà không hề sợ bi loài côn trùng dữ này tấn công, nơi chị bán hàng là chợ cửa khẩu Quốc tế Tịnh Biên – An Giang.
image
Chị Trương Thị Bé Sáu cười toét miệng khi hai tay nắm đuôi mấy chú chuột cống vừa đập chết , chuẩn bị làm sạch bán cho khách ở Phụng hiệp – Hậu Giang.
image
Ở các chợ vùng đồng bằng sông Cửu Long, việc bắt chuột, bán chuột
image
….đến cắt đầu, lột da chuột bán cho khách cũng một tay chị em phụ nữ có lá gan “to” dám làm điều này.
image
Chuột chứa đầy trong rọ chuẩn bị đem đi làm thịt cung cấp cho nhà hàng
image
Ở chợ Xẻo Vong – Hậu Giang, hầu hết chị em phụ nữ đứng ra làm nghề lột da, cắt đuôi chuột để bán cho thương lái.
image
Chị Ngô Thị Ngon, ở huyện Thoại Sơn – An Giang cũng dùng cả hai tay trần bắt rắn để bán cho khách hàng. Những con rắn này là loại rắn trung, chúng cắn rất độc, nhưng chị cứ “tỉnh bơ” như không có vấn đề gì, còn biểu diễn cho khách xem.
image
Cũng giống chị Ngon, chị Ngôn ở huyện An Phú – An Giang thường hai tay trần cầm hàng chục con rắn hung giữ để biểu diễn cho khách xem trước khi ngã giá bán.
image
Đặng Thị Ngọc Hà, ở huyện An Phú – An Giang “khoe thành tích” khi cầm trên tay gần 20 con rắn nước mới bắt được.
image
Người phụ nữ này ở xóm chuột Châu Phú – An Giang “có tiếng” khi mỗi ngày chặt đầu, lột da trên 1.000 con chuột để lấy tiền công 80.000 đồng/ngày.
image

Không đi bắt rắn hay ra chợ ngồi bán rắn, nhưng chị Nguyễn Thị Nói, ở huyện An Phú – An Giang nổi tiếng khắp vùng sông nước miền Tây khi mỗi ngày phải chăm sóc đàn rắn hỗ hèo lúc nhúc trên 500 con mà không sợ chúng cắn. Chị nói, nuôi riết quen nên chúng rất thân thiện với con người.

Chăn vịt chạy đồng

image
Nhiều năm qua, người dân ĐBSCL, nhất là dân vùng Đồng Tháp Mười và tứ giác Long Xuyên, không xa lạ gì những cư dân nuôi vịt chạy đồng sau mỗi mùa thu hoạch lúa.
Nghề nuôi vịt chạy đồng lắm phần vất vả, cực nhọc; đời người nuôi vịt cũng chẳng kém gian nan. Ăn bờ ngủ bụi, lăn lóc gió sương, mỗi chuyến chạy đồng có khi phải xa nhà cả tháng. Nhưng tập quán của cư dân miền Tây xưa nay là vậy. Vịt thì chạy đồng, còn gà thì thả vườn.

image

Bao đời nay, ông bà ta đã đúc kết : Muốn giàu nuôi cá, muốn khá nuôi heo, muốn nghèo nuôi vịt. Nhưng ở miền sông nước với trước vườn sau ruộng, chăn nuôi gia súc gia cầm đã trở thành tập quán khó lòng thay đổi. Vậy nên đàn vịt vẫn tiếp tục sinh sôi.

image
Nghề nuôi vịt chạy đồng thường xuất hiện ở những nơi sản xuất lúa tập trung. Gọi là “vịt chạy đồng” vì người nuôi không cần phải mua thức ăn cho vịt, mà chỉ cần lùa vịt đi ăn mót lúa rơi vãi trên những cánh đồng vừa thu hoạch, hết đồng này thì chạy sang đồng khác. Ngoài lúa mót , vịt còn có thể ăn các loại côn trùng như dế, sên, ốc, cua, hến và nhiều động vật thủy sinh khác. Dân nuôi vịt chạy đồng cũng hay  khoe là đàn vịt còn trừ rầy… cho lúa.
Vịt ăn nhờ lúa rơi lúa mót, nhưng vẫn lớn nhanh như thổi. Do vậy, nhiều cư dân miền Tây đã chọn nghề nuôi vịt chạy đồng để mưu sinh.

image
Ở miền Tây, có lẽ không ai rành mùa vụ từng vùng bằng những người nuôi vịt chạy đồng , bởi họ cứ theo bầy vịt đi hết đồng này sang đồng khác để chăn thả, rày đây mai đó. Lúa chín đến đâu, người chăn giữ lại cho vịt đi theo đến đó. Lấy bầu trời che đầu, rạ rơm làm bạn, dù đi đâu, làm gì, người nuôi vịt cũng thường mang phong thái lạc quan.
Dưới cái nắng chang chang, anh Nguyễn Văn Nam – một người làm công ở tỉnh An Giang – đang chậm rãi lùa bầy vịt đi ăn. Anh Nam theo nghề từ khi còn rất nhỏ, mọi cánh đồng đã thuộc như lòng bàn tay. Tháng này ở đồng nhà, nhưng qua tháng sau có khi phải xuống tận Sóc Trăng, Bạc Liêu mới có đồng cho vịt ăn. Tranh thủ lúc bầy vịt nghỉ ngơi uống nước, cha con anh vội vàng dọn cơm, ăn tạm giữa cái nắng ban trưa.

image
Vật dụng không thể thiếu của người nuôi vịt chạy đồng là cây diều, dùng để kiểm soát không cho vịt nhập đàn và điều khiển đàn vịt theo ý muốn. Sau mỗi lần vịt đi ăn về, người chăn phải ngó nghiêng kiểm tra quân số.
Để tránh nhập đàn, chủ vịt thường dùng sơn màu phết lên mình vịt làm dấu. Màu sơn phải chọn sao cho khác biệt với màu của các đàn vịt còn lại trong xóm. Nếu bị nhập đàn cũng dễ nhận ra đàn vịt nhà mình. 
Mỗi đàn một màu nên cả cánh đồng trở thành bức tranh sinh động, nhiều màu sắc. Hết đàn vịt này đến đàn vịt khác lướt qua cánh đồng, ở lại đôi hôm rồi xuôi về miệt khác.

image
Khi bầy vịt ra đi, đến lượt lũ trẻ trong xóm được hưởng mùa lượm trứng rớt chạy đồng. Trong văn hóa ứng xử của đời sống dân dã ở miền Tây, có thể xem đây là sự đền đáp mà người chăn vịt dành cho chủ ruộng vì đã chia sớt cho mình những hạt lúa sót trên đồng.

Vẫn là trứng vịt bình thường, nhưng do chính tay mình lượm được thì với lũ trẻ ở quê, món ăn có vẻ như ngon hơn. Vậy là nghề nuôi vịt chạy đồng cũng đã gắn liền với những món ăn dân dã đậm đà mùi rạ mới.

image
Nơi xứ lạ, giữa bạn chăn vịt rất dễ tìm thấy sự cảm thông. Họ quy ước san sẻ các ô ruộng để vịt nhà ai cũng có cái ăn. Khi chiều về, đêm xuống, họ cùng nhau hàn huyên, chia sẻ chuyện đời, chuyện người. Trên đồng vắng, chút hơi cay đủ làm ấm lòng người xa xứ. 
Niềm vui lớn nhất của người chăn vịt là khi cánh đồng vào độ chín vàng, lúa vừa cắt chỉ còn trơ gốc rạ. Khi ấy, tha hồ cho chủ lẫn đàn cắm chân mình trên những cánh đồng bạt ngàn mùi rơm mới.
Dãi nắng dầm sương, ăn bờ ngủ bụi, chợp mắt dưới hàng tre, bên bờ cỏ hay dưới rặng trâm bầu. Vậy mà vui. Vào mùa chạy đồng, trong nhà chưa chắc vui như ngoài ruộng.
Chúng tôi tìm về vùng nuôi vịt chạy đồng nhiều nhất ở tỉnh Đồng Tháp. Dọc con đường có rất nhiều đàn vịt đang cố mò tìm những hạt lúa cuối cùng trên cánh đồng đã trơ gốc rạ. Trên khuôn mặt những người nông dân hai tháng nay bám theo đàn vịt của mình đã hằn lên những nét khắc khổ, phong trần.

image
Anh Trần Văn Út có nhiều năm trong nghề nuôi vịt chạy đồng. Từ An Giang, anh đưa đàn vịt gần 5.000 con sang Đồng Tháp cho chúng kiếm ăn. Mỗi lần di chuyển đàn, anh phải mướn ghe, chở cả bầy đến cánh đồng mới. Sau đó, anh ở lại cùng những bạn chăn cho đến hết mùa rạ.
Để lưu lại dài ngày, những người nuôi vịt phải cất chòi ở tạm ngoài đồng, trên bờ đê cao gần nơi vịt ở để tiện trông coi đàn vịt của mình. Đi đến đâu, họ cũng phải cắm chòi ở tạm như thế.

image
Hôm nay, họ đang chuẩn bị cho một điểm đến mới. Chăn vịt cùng cánh đồng với anh Trần Văn Út còn có anh Nguyễn Văn Dợt. Còn chưa đến 20 ngày nữa, nơi đây sẽ vào mùa sạ mới nên anh Dợt đang tích cực liên hệ tìm đồng để “chạy” đàn.
Xuất thân từ gia đình “gốc rạ” chánh hiệu, nên mọi vất vả của nhà nông, anh đều nếm trải. Nhà rất nghèo, để kiếm đủ cái ăn cái mặc, tuổi thơ anh đã trải qua những tháng ngày cơ cực. Lớn lên, theo nghề nuôi vịt truyền thống của gia đình, anh cũng chạy hết đồng này sang đồng khác. Nhưng có khác là giờ đây, anh chỉ chạy một mình; còn gia đình, con cái, anh mang hết lên thị xã, cho con ăn học với mong muốn làm một cuộc cách mạng để đổi đời. Con anh sẽ thôi không phải theo cái nghề chạy đồng này nữa. Ước mơ đẹp của người chăn vịt nầy, hy vọng sẽ thành sự thật.

image
Cuộc sống của người nuôi vịt chạy đồng mang hình thức chăn nuôi du canh. Dù đi đến đâu thì người và của cũng sát bên nhau, không rời nửa bước. Có người đi một mình như anh Dợt, nhưng cũng có người mang theo cả gia đình, vợ con. Lênh đênh trôi nổi trên đồng theo từng mùa vụ.
Sáng sớm là thời khắc hoàng kim của người nuôi vịt đẻ chạy đồng bởi đó là lúc thu hoạch trứng. Từ nửa đêm đã nghe tiếng vịt kêu ổ, ba giờ sáng thức dậy đi gom trứng và chuẩn bị một ngày mới cho vịt đi ăn. Cảm xúc buồn vui sẽ tùy thuộc vào thành quả lượm hột buổi sớm mai.

image
Đa số những người nuôi vịt chạy đồng là những nông dân không ruộng đất, không nghề nghiệp. Nuôi vịt chạy đồng là lấy công làm lời. Chủ vịt họa hoằn còn có cơ may để làm giàu, còn thu nhập của bạn chăn thuê chẳng có là bao.
Cuộc sống của họ luôn phập phồng, vừa lo kiếm ăn cho bầy vịt, vừa lo vịt lạc bầy sẽ bị trừ vào tiền công. Vất vả là vậy, nhưng ngoài bầy vịt và cánh đồng, có lẽ họ vẫn  chưa tìm ra lối khác trong cuộc mưu sinh.
ĐBSCL hiện có khoảng 15 triệu con vịt chạy đồng, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh như An Giang, Đồng Tháp, Tiền Giang, Long An… Theo cách tính của nông dân, cứ 1.000 đến 1.200 con vịt cần một người chăn giữ, thì số lao động theo nghề này cũng có đến hàng ngàn.

image
Khó khăn lớn nhất của người nuôi vịt chạy đồng là rủi ro về bệnh tật, không ít hộ đã phá sản hoặc phải bỏ nghề.
Một khó khăn khác là phải di chuyển đồng xa, chi phí khá tốn kém. Đã vậy còn phải “mua đồng”, tức là người nuôi muốn thả vịt vào cánh đồng nào thì phải trả cho chủ đồng từ 15.000 đến 20.000 đồng trên mỗi công ruộng. Nuôi vịt chạy đồng ngày càng lắm gian truân.
Tuy nhiên, vì tập quán chăn nuôi truyền thống ở miền sông nước , cũng như những lợi ích nhất định mà nghề mang lại nên nhiều nông dân miền Tây vẫn duy trì hình thức nuôi vịt chạy đồng. Bên cạnh đó, những chủ vịt có điều kiện cũng đang chuyển dần từ hình thức nuôi vịt trên đồng nước sang nuôi khô trên cạn , từ bán công nghiệp sang công nghiệp.

image
Người nuôi vịt chạy đồng là những con người vất vả, lam lũ nhưng chân chất, mộc mạc. Trên những cánh đồng sau mùa gặt, mọi thứ tưởng chừng đã bỏ đi, nhưng thiên nhiên miền Tây vốn hào phóng, bao dung, cũng như người miền Tây yêu lao động, quen sống đời phóng khoáng. Nghề nuôi vịt chạy đồng thong thả, bình dị, lặng lẽ góp phần giữ lại cho miền Tây những phong vị riêng có ở vùng sông nước phương Nam.
Thu Trang

Ba ngày ở Sapa

image
Đong đưa nhp khèn, vang xa điu sáo
G
i tình yêu ngô lúa sn khoai 
(Nỗi nhớ của người H'mông)
Dương Toàn Thắng

Đi dự những dạ hội ở Paris, tôi thường được ngắm trang phục sặc sỡ các sơn nữ nước ta, nhưng ở trên sân khấu chắc các cô không có sắc đẹp hồn nhiên của phụ nữ trên các sườn đồi với những cánh đồng bậc thang thấp thoáng ánh nắng ban chiều. Vì vậy về Hà Nội rảnh đựơc mấy hôm, tôi không do dự ghi tên đi Sapa vài ngày. Tôi tiếc là ba ngày thì quá ngắn dù chỉ muốn có một ý niệm nhưng thà ít còn hơn không, tôi hớn hở đáp tàu lửa lên Lào Cai và sáng hôm sau đón xe hàng đưa đi Sapa. Bước ra khỏi thị trấn, nải chuối bên hiên nhà, trái mít dọc thân cây, đứa trẻ nghêu ngao trên lưng trâu,...khêu gợi biết bao kỷ niệm quê nhà tuy Sapa xa miền Trung quê tôi cả ngàn cây số....

image
Bản Hồ
Sapa là một tỉnh lỵ tỉnh Lào Cai ở cực bắc Việt Bắc, tọa lạc ở cao độ 1500m cạnh một nhánh của sông Hồng. Từ một nơi xa lánh, đầu thế kỷ XX Sapa trở thành một thị trấn với một đồn lính và một trụ sở hội truyền giáo cơ đốc. Bắt đầu từ thập niên 50, thương mãi được mở mang nhưng ngành du lịch chỉ theo gót phát triển mạnh mẽ sau những năm 2000. Những người dân tộc ít người (14%) H'mông, Dao ít át, mù chữ, để cho người Kinh lo mọi chuyện hoạt động kinh tế, ngay cả gần đây tồ chức đi dạo trong núi, về ngủ ở nhà, xem văn nghệ trong những tuyến du lịch trực tiếp dính dấp đến người địa phương. Chính quyền hứa một cuộc phát triển kinh tế dựa lên nền du lịch quần chúng và sự tăng trưởng kinh tế mau lẹ bắt đầu với sự xây dựng nhà cửa, khách sạn,...nhưng đến nay vai trò của người dân tộc chưa thấy được khuyến khích và người H'mông thấy vẫn còn nghèo khổ.

image
Khoảng trước đây 4000 năm, người H'mông hay Mông sống ở vùng núi nam Trung Quốc và phía bắc căc nước Đông Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Cách đây hơn 300 năm, họ bắt dầu di cư vào nước ta, sống rải rác ở các tỉnh Bắc Việt như Lào Cai, Sơn La, Hà Giang, Điện Biên trước khi một số tiến dần vào Trung Việt định cư ở các tỉnh Đắc Lắc, Đắc Nông trên Cao nguyên. Sau 1975, một số nhỏ người người H'mông vượt biên qua sống ở Pháp, Hoa Kỳ, Canađa, Úc châu. Với dân số một triệu người, hiện nay dân tộc H'mông đứng thứ 8 trong danh sách 54 dân tộc Việt Nam.

image
Các nhà khảo cứu chia người H'mông thành nhiều chi khó phân biệt trong mắt khách du lịch : H'mông Đơ hoặc H'mông Đâu (H'mông trắng) ; H'mông Đu (H'mông Đen) ; H'mông Si (H'mông Đỏ) ; H'mông Dua (H'mông Xanh) ; H'mông Lềnh (H'mông Hoa) ; H'mông Xúa (H'mông Lai ; Ná Mẻo (H'mông Nước). Ơ Trung Quốc người H'mông được gọi Miêu, ở Lào Meo, trước kia ở nước ta Mèo. Họ cùng hai dân tộc Dao và Pà Thèn thuộc nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ H'mông-Dao. Tuy nhiên có những nhóm như Ná Mèo sống kề cận với các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Tháị-Việt-Mưòng thì hết còn giữ những đặc tính H'mông.

image
Giang Tả Chải
Theo các nhà dân tộc học, người H'mông từ miền nam Trung Quốc di cư qua Việt Nam theo ba đợt chính. Đợt thứ nhất cuối đời Minh, đầu đời Thanh, vào lúc có phong trào người Miêu chống lại chính sách "cài tổ quy lưu" và bị thất bại. 100 hộ thuộc các tộc Lú, Giàng, từ Quý Châu trước qua các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang rồi dần dần tiến sâu vào miền đông bắc Việt Nam. Trong đợt thứ hai, một thế kỷ sau, cũng khoảng trên 100 hộ thuộc các tộc Vàng, Lý theo cùng đường qua Đồng Văn. Đồng thời, một số ít hơn thuộc các tộc Vàng, Lú, Châu, Sùng, Hoàng, Vừ qua Si Ma Cai, Bắc Hà tỉnh Lào Cai.

image
Như đợt trước, những di dân nầy dần dần rải rác khắp các tỉnh tây bắc. Qua đợt thứ ba, vào thời "Thái Bình Thiên Quốc" 1840-1868, chồng lại triều Mãn Thanh, người Miêu tham gia đông đảo, không thành công, khoảng trên một vạn người từ Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam chạy qua trốn ở các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái rồi lan rộng ra các miền đông bắc và tây bắc Việt Nam. Sau các đợt chính nầy, hằng năm vẫn có người người Miêu lẻ tẻ di cư qua, theo con đường Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang, cũng có một số từ Lào đến. Số dân người H'mông tăng lên đáng kể sau 1986. Ngày nay ở Việt Nam có hơn một triệu người H'mông trong số 9 triệu khắp thế giới, cư trú ở các tỉnh Hà Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng.

image
Trên đường đi Lai Châu
image
Lao Chải - Tả Vạn
Người H'mông sống thành bản vài chục nóc nhà khép kín, có khi tường đá ngang đầu bao quanh. Nhà trệt, ba gian , hai chái, bưng ván, vách nứa, mái tranh, có hai hay ba cửa. Nhà giàu có cột gỗ thông kê trên đá, gác lát ván, mái lợp ngói âm dương. Người H'mông coi trọng dòng họ, sống quây quàn thành cụm, có trưởng họ là người có uy tín được tôn trọng. Tình cảm sâm đậm gắn bó ngưòi cùng họ nhưng không được cưới nhau. Thanh niên nam nữ được lựa chọn bạn đời, còn có tục "cướp vợ", cô dâu bị chú rể bắt cóc đem về nhà sau mới báo cho gia đình nhà gái. Thường con trai có vợ thì tách ra ở riêng. Vợ chồng thường hòa thuận sống với nhau, cùng làm ăn, lên nương, xuống rẫy, ít khi bỏ nhau.

image
Người H'mông có câu "Lửa cháy đến đâu người Mông theo đến đó". Sản phẩm nông nghiệp là ngô, khoai, vừng, đậu, mạch, rau,...lúa trong các thửa ruộng bậc thang, các cây ăn trái như táo, đào, mận, lê,...những cây thuốc như tam thất, xuyên khung, đảm câm,... Các nghể thủ công như đan lát, thợ rèn, đồ gỗ, đồ đựng, giấy bản, lưỡi cày, dao cuốc, đồ trang sức bằng bạc, ngay cả nòng súng được phát triển đa dạng, đạt trình độ cao.

image
Lao Chải - Tả Vạn
Người H'mông cũng như nhiều dân tộc ít người khác theo tín ngưỡng đa nguyên, nhưng cốt yếu là thờ cúng tổ tiên. Cũng có một số người H'mông ngày càng lớn theo đạo Thiên chúa và đạo Tin lành, nhưng có đoàn thể tôn giáo và phi chính phủ ở ngoại quốc loan báo nhiều tín đồ ở các tỉnh lai Châu, Lào Cay bị chính quyền đàn áp. Vừa rồi, có chuyện tập trung đông người H'mông tại huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên nói lên thực tế khó khăn của một dân tộc thiểu số.

image
Đàn ông H'mông mặc áo cánh ngắn dưới thắt lưng, thân rộng, ống tay dài, đầu chít khăn hay đội mũ đính những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, quần dài rộng, áo quần đều màu chàm. Phụ nữ ăn mặc nếu không một màu xanh đậm thì rất là sặc sỡ, áo xẻ ngực có yếm, mở chếch ngực phía bên trái, tấm xiêm trước ngực, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai chân, đeo khuyên tai, vòng cổ, vòng tai, vòng chân. 

image
Văn nghệ người H'mông khá phong phú, đặc biệt văn học truyền miệng : truyện thần thoại về anh hùng văn hóa, truyện dạy cách trồng ngô lúa, may áo quần, truyện cổ tích về thú vật, nhất là con hổ. Họ rất thích dân ca dân tộc, nhưgầu plềnh (tiếng hát tình yêu), gầu xuồng (tiếng hát cưới xin), hát khi làm việc nơi nương rẫy, xe sợi dệt vải hay trên đường đi chợ, lễ hội. Họ dùng ngựa thổ hàng, ngựa rất gần gũi và thân thiết với từng gia đình. Chợ phiên vừa là nơi trao đổi hàng hóa, vừa là nơi giao lưu tình cảm..

image
Chợ tình ở Sapa tổ chức mỗi năm một lần tuy sinh hoạt không còn sâu đậm như xưa. Họ có nhiều nhạc cụ dân tộc như sáo, khèn, kèn lá, đàn môi,...sử dụng cùng với tiếng hát trong những lễ hội như lễ hầu táo (đón năm mới). Thanh niên thưòng vửa thổi khèn vừa múa. Trai gái trao đổi tâm tình qua kèn lá, đàn môi. Sau một ngày lao động, người H'mông thích ca hát và dùng nhạc cụ nói lên cơn vui, nổi buồn hay ca ngợi quê hương đất nước.

image
Sapa
Từng sống ở đồng quê hồi nhỏ, tôi rất thông cảm tình cảm người H'mông trông cảnh những cánh đồng bậc thang thấp thoáng nổi bật trước những dãy núi xanh lục đủ màu. Lấp ló sau những lùm cây là xóm làng yên tĩnh, sáng nghe tiếng gà gáy, chiều có mây mù bao phủ. Chảy quanh xóm có con sông nhỏ, có chỗ phình rộng thành hồ, mùa nóng tắm mát thật dễ chịu. Đối với ngưòi như tôi sống ở chốn thành thị náo nhiệt, ồn ào như Paris, về đây thấy như chốn thiên đàng. Mà không xa Sapa bao lăm. Bản Hồ, Lao Chải, Tả Vận, Giang Tả Chải,...chỉ cách Sapa vài tiếng đồng hộ đi bộ. Khi đi dạo trên các đường đê giữa các ruộng lúa vàng cũng như khi vượt con suối nhỏ dọc những khóm hoa nuôi sực tím một màu, tôi tiếc mình không phải là nhà thơ để thả vài câu trữ tình. Nhưng đã có người H'mông hát giùm:
Sui hát sau nhà, mây bay đu núi
G
i người H'mông ta đến vi nhau
Nh
p nhàng múa quanh bếp la hng
Nào anh nào em, g
i mùa Xuân v vi bn H'mông
Dương Toàn Thắng

image
Sapa
Về với rừng, ưóc mong của người H'mông dần dần bị giới hạn vì như ở miền Điện Biên, ngay cả ở khu bảo toàn thiên nhiên Mường Nhé, "cả trãm nghìn hecta rừng đã bị phá, nói đúng hơn khu bảo tồn hơn ba trãm nghìn hecta kia bị rỗng ruột từ rất lâu, nay đang tiếp tục bị xẻ thịt trên diện rộng." Theo nhà báo Đỗ Doãn Hoàng thì người phá rừng và xẻ đất là những người di dân tự do, những người H'Mông đi tìm nơi đất lành chim đậu. "Các xã mênh mông từ Mường Nhé, Sìn Thầu, Chung Chải, xưa vốn chỉ có duy nhất bản Nậm Là là nơi sinh sống của đồng bào H'mông thì nay, dân số Mường Nhé đã đến mức nửa già là người H'mông. Hầu hết họ đến bằng con đường di dân tự do".

image
Số phận của người H'mông không khác gì số phận những người dân tộc thiểu số khác, kể cả những dân tộc trên Cao nguyên Trung Việt, nơi rừng dần bị phá hủy để người Kinh trồng cà phê ! Những nhà dân tộc học thường bảo rừng là môi trường sinh sống của người dân tộc thiểu số, phá rừng là cách dễ dàng nhất để triệt tiêu một dân tộc.

image
Frédéric Michalak
Mấy ngày ở Sapa vui bao nhiêu với phong cảnh quê hương hữu tình thì tôi lại buồn bấy nhiêu vì thấy tương lai mờ mịt của một số đồng bào. Trái với dân tộc Dao, dường như trẻ em H'mông ít được đi học. Ở Sapa, chúng đi bán hàng ; khách du lịch Tây phương đã có phàn nàn chúng hay chạy theo xin tiền...Vừa qua, đài truyền hình A2 của Pháp có cho chiếu một chương trình "Rendez-vous en terre inconnue" trong ấy anh chàng đá bóng bầu dục Frédéric Michalak đươc mời về ăn ở hai tuần với một xóm người dân tộc Lôlô đen, liệu tiếp xúc với nền vãn minh có giúp ích được gì cho tình thế hiện nay ?

image
Võ Quang Yến

Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh

image
Người xưa trọng nghề vì nghề nuôi sống được thợ. Có nghề là đời sống được bảo đảm. Tay nghề giỏi là thân được sướng và có chuyên tâm vào công việc thì mới mong thành công. Còn những câu thành ngữ quen thuộc khác cũng mang ý nghĩ trên:
"Một nghề thì sống, đống nghề thì chết" hay "Trăm hay không bằng tay quen": có giỏi cũng phải thực tập mới được.
Tiếng Mỹ còn có câu "Jack of all trades, master of no one" (= cái gì cũng làm thì không giỏi cái gì được). Rõ ràng là người xưa chỉ lo sao có được cái nghề để lo miếng cơm, manh áo, nuôi thân, nuôi gia-đình, vợ con. Nhìn xa hơn chút thì quả nhiên tất cả những danh-nhân đều là những chuyên-gia đã thành công trong địa-hạt của mình: khoa-học, chính-trị, âm-nhạc, thể-thao...
Và ngay cả trong cùng một ngành cũng nên chuyên vào một bộ môn: bác sĩ thì le lắm rồi nhưng nếu nha-sĩ hay bác-sĩ mắt, hay chuyên hẳn về ung thư não chẳng hạn thì lại càng bảo-đảm. Càng chuyên-môn càng "ăn tiền", nghĩa bóng cũng như nghĩa đen.

image
Một võ sĩ cần có một tuyệt-chiêu để tác oai, tác quái (đừng quên Vương Trùng Dương đã trở thành Võ lâm chí tôn nhờ công phu Nhất Dương Chỉ); một kiếm sĩ cần có một nhát bí-mật (botte secrète); ca sĩ phải có ít nhất một bài tủ làm ký-hiệu (Chiều mưa biên-giới của quái-kiệt Trần Văn Trạch, Đêm đông của nữ ca-sĩ Bạch Yến, Riêng một góc trời của Tuấn Ngọc, ...). Nhất là trong những ngành nghệ-thuật, hay dở là chuyện khó khẳng-định nhưng có được một phong cách (style) riêng-biệt mới là điều cần.

image
Chúng ta ai cũng biết đến "hệ-thống danh-nhân" (celebrity system) của Mỹ: làm gì thì làm, miễn sao nổi-tiếng thì đi đâu cũng lọt, làm gì cũng dễ thành-công. Một thí-dụ điển-hình của địa-vị "celebutante" (nổi-tiếng không phải vì tài) là cô Paris Hilton, chắt của thành-lập viên nhóm khách-sạn HILTON: nhờ con nhà giàu và nhờ một cuốn băng video nóng bỏng tung lên Mạng, cô đã trở thành rất nổi-tiếng để sau đó trở thành diễn-viên, ca sĩ, văn sĩ, doanh nhân, ... và tỉ-phú.

Nhất nghệ tinh không chỉ áp-dụng nơi một cá-nhân, mà còn có thể là nét đặc trưng của cả một nhóm: làng Cự Đà nổi tiếng với nghề gia-truyền làm tương, làng Hành-Thiện nổi-tiếng là làng Nho học từ xưa, có nhiều người học hành đỗ đạt... Bên Mỹ này, ba phần tư chủ-nhân tiệm làm móng tay vùng California là người Việt-Nam, trong khi người Đại-Hàn thành-công với nghể giặt ủi và người Trung Hoa nổi-tiếng với nghề tiệm ăn.

image
Nước Thuỵ-Sĩ, nuớc của đồng-hồ, còn nổi-tiếng với ngân-hàng và cơ-sở tài-chánh. Nước Pháp nổi-tiếng nhờ rượu vang, thức ăn, đồ xa-xỉ-phẩm như nước hoa, quần áo, ... Nước Đức, nước Bỉ được biết đến nhờ rượu bia,...Những nuớc Trung-Đông thì được Trời ban cho dầu-hoả. Trong ngành thể-thao, Trung-Quốc đứng đầu với môn bóng bàn, nước Ba-Tây với môn bóng đá, ...
Nói tóm lại, khó ai có thể nói "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh" là sai, như lịch-sử đã chứng minh từ ngàn đời nay. Chỉ có điều, thời buổi này thay đổi nhiều và nhanh quá, một nghề đang thịnh hôm nay, ngày mai có thể chết: máy vi-tính đã giết nhiều nghề trong ngành kế-toán và nghề bàn giấy, Internet đã làm đảo điên những nghề điã nhạc, phim ảnh, báo chí, bưu-điện, ...

Bách nghệ tinh, ...
Như đã nói,  "Một nghề thì sống, đống nghề thì chết". Cũng như "Jack of all trades, master of no one" (= cái gì cũng làm thì không giỏi cái gì được). Ôm đồm quá chỉ có hại. Nếu có một ngoại-lệ đáng kể nhất thì chắc hẳn phải nhắc đến Leonardo di ser Piero da Vinci (Leonardo, con của Ser Piero, đến từ Vinci, Ý Đại Lợi), thường được gọi là Leonardo da Vinci. Ông được coi là một thiên-tài toàn năng: họa sĩ (bức tranh nổi tiếng nhất là Mona Lisa), nhà điêu-khắc, nhạc sĩ, bác sĩ, nhà giải-phẫu, kỹ sư, kiến-trúc sư, nhà sáng tạo và triết gia.

image
Có lẽ tự cổ chí kim, trên đời này không còn ai biết nhiều, hiểu rộng hơn ông. Nói đến bách nghệ, bên Pháp có trường Bách Khoa Paris (École Polytechnique) còn được nhắc đến với tên X, thành-lập năm 1794, là trường cao-đẳng đại-học đào tạo kỹ sư nổi tiếng nhất tại Pháp. Mục đích truyền thống của các sinh viên Polytechnique (Polytechniciens) là trở thành nhân lực cao cấp của quốc gia và mục đích này vẫn còn được tiếp tục cho đến ngày nay. Tuy vẫn được nhắc đến như đào tạo đại-học, nhưng trên thực tế chương-trình học luôn vượt khá xa so với chương-trình đại-học khoa-học bình thường.
Thêm vào đó, chương-trình học thường rất rộng, sinh viên thường tiếp cận các môn học nằm ngoài chuyên ngành của mình. Triết lý "rộng hơn sâu" đã gây nên rất nhiều tranh cãi từ nhiều năm nay, nhưng điều này đã làm nên tính đặc-trưng của chương-trình học Polytechnique. Thực tế cho thấy, sinh viên sau khi tốt nghiệp, đa số có một nền tảng khoa-học cơ-bản rất chắc chắn, giúp họ dễ dàng đào sâu vào bất cứ chuyên ngành nào trong thời gian ngắn hơn nhiều so với một sinh viên đại-học bình thường.

image
Trong môi trường làm việc, phần lớn các cựu sinh viên Polytechnique đều trở thành Giám-Đốc, Tổng-Giám-Đốc trong những hãng tư hay viên-chức cao-cấp trong chính phủ, không ai là không thành công cả. Mặt khác, bất cứ bộ-trưởng, thủ-tướng, tổng-thống Pháp nào cũng đều xuất thân từ Trường Quốc Gia Hành Chánh (Ecole Nationale de l'Administration, gọi tắt là E.N.A.) hay ít nhất là trường Cao Học Chính Trị (Institut d'Etudes Politiques de Paris, gọi tắt là Sciences Po).
Mẫu số chung của các trường này là chương trình học rất rộng và nhất là cách giảng dạy tập cho sinh-viên một lối suy-nghĩ đặc thù của những nhà lãnh-đạo: phân-tích và hiểu rất nhanh qua những điểm chính-yếu để quyết định. Điều này cũng dễ hiểu vì vai-trò một lãnh-đạo là chỉ đường (đạo), là quyết định để người khác thi hành. Như vậy, một nhà lãnh đạo không thể là một chuyên-gia. Vẫn bên Pháp, nếu ngược giòng thời gian lên thế kỷ thứ 17, ta sẽ có khái-niệm "Honnête Homme" làm mẫu-mực nhân-tính (modèle d'humanité) cho nam-giới quí-tộc cũng như tư-sản thời đó. Khái-niệm "Honnête
Homme" này hầu như chỉ có bên Pháp, tôi chỉ có thể tạm dịch là "Quân-tử Pháp" coi như là gần nhất. Người Quân-tử Pháp phải là một người có kiến-thức rộng và là người hoạt-bát, nhưng phải biết lịch-sự và khiêm-tốn. Nói về sự hiểu-biết, người Quân-tử Pháp là người toàn-năng, có óc tổng-quát hơn là chuyên-môn.


image
(Blaise Pascal đã từng khẳng-định "il est plus beau de savoir quelque chose sur tout que de savoir tout d'une chose" = Biết chút ít về tất cả mỹ miều hơn là biết tất cả về một thứ). Người này có đầu óc mở rộng và hiếu kỳ. Nói về nhân-tính, người Quân-tử Pháp phải biết cân-bình giữa Thân và Tâm, biết chừng mực, trọng sự cân-đối hài hòa (điểm này có đôi phần tương-tự với pháp Trung-Dung). Ngoài xã-hội, người này lịch sự với đàn bà (galant), nhã nhặn, cởi mở, có duyên (nhưng vẻ hài-hước dí dỏm của ông là loại tế-nhị làm người khác mỉm cười). Nói tóm lại, lý-tưởng "Honnête Homme" là một mẫu người đi ngược lại quan-niệm "Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh", tuy rằng "nghệ" ở đây chỉ-định nghề-nghiệp nuôi thân chứ không nghĩa rộng như quan-điểm "Honnête Homme".

image
Nói đến đây, tôi lại nhớ đến một nhân-vật thật đặc sắc: Sir Richard Branson, một doanh-nhân tỷ phú người Anh, bỏ học từ lúc 15 tuổi và ngày hôm nay là chủ nhân của nhóm Virgin, với hơn 400 công-ty và 55.000 nhân viên trên toàn cầu và trong mọi địa-hạt: đĩa nhạc, điện-ảnh và truyền hình, thể thao, du lịch, hàng không và xe lửa, nước uống và thực phẩm, ... Ông còn rất quan-tâm đến những vấn đề ô-nhiễm và từ-thiện.
Chủ-trương của ông là nếu biết kinh-doanh thì mình vẫn có thể thành công trong bất cứ ngành nào. Ông đã được vinh danh và được lãnh nhiều giải toàn cầu, ông cũng đã được phong "Hiệp sĩ" (knight) bởi Hoàng-tử Charles. Trên phương-diện cá-nhân, ông là một thể-thao gia có hạng (máy bay, thuyền buồm, kite board, khí cầu đốt lửa / montgolfière với vài kỷ-lục đã được thâu nhận, ...), và (dĩ nhiên) ông là một tay Playboy khét tiếng.


image
Lại một bách nghệ gia.

Nhất nghệ hay bách nghệ?

Đào sâu hay đào rộng? Đặt câu hỏi cho có lệ chứ đương nhiên là khía cạnh nào cũng có cái hay cái dở, điểm lợi điểm bất lợi, và đừng quên điểm chính là phải phù-hợp với cá-tính và khả năng của mỗi người. Như đã xem, nhất nghệ hay bách nghệ đều có thể thành công (hay thất bại) như nhau, lại trở về số-phận của mỗi người thôi. Riêng trong trường-hợp tôi, chắc hẳn câu "Jack of all trades, master of no one" là đúng hơn hết. Thuở đi học, tôi đã chọn kỹ-sư thay vì bác sĩ vì tôi sợ học thuộc lòng, sau đó tôi học thêm một năm về quản-trị xí-nghiệp rồi bắt đầu đi làm với trách-nhiệm quản-lý những chương-trình huấn-luyện nhân-viên (Responsable formation / Training manager). Tôi học kỹ-sư về kim-loại, đi làm trong những hãng/xưởng kim loại suốt 15 năm để rồi sau cùng vẫn chả biết gì về kim loại, vì tôi làm toàn những nghề "tổng quát" trong những địa hạt nhân sự (Ressources humaines / Human resource), quản lý (Management) hay Quality (ngành này hình như ít thấy ở Việt-Nam, tôi không biết phải dịch là gì, có lần tôi đọc được trên Mạng danh từ "Quản lý Chất lượng tổng quát" để chỉ định Total Quality Management thì thấy nó "kỳ kỳ" làm sao ý). Đã có lần đi phỏng vấn, một nhà tuyển dụng (recruiter) đã định-nghĩa tôi là một "kỹ sư văn chương", đúng là nửa người, nửa ngợm (nửa đười ươi)!

image 
Sau đó, tôi ra làm riêng trong nghề cố-vấn Quản-lý (Management consulting) và đã may mắn có dịp tiếp xúc với gần 300 công-ty trong những địa-hạt rất khác biệt: ngân hàng, bảo-hiểm, kế-toán, thương nghiệp, giáo-dục, thông tin đại chúng, năng lượng và nước, cơ-quan nhà nước, nhà in (trong đó có in tiền và in tem bưu-điện), Công chánh, hóa học, dầu hỏa, ...
Tính tôi hiếu kỳ lắm, tôi thích học hỏi trong rất nhiều ngành: tâm-lý, xã-hội, triết, lịch-sử, âm nhạc, văn chương, nhiếp ảnh, ...
Nói về ăn, tôi đã thử rất nhiều thức ăn trên thế-giới và đi ăn hiệu, tôi thường gọi những món tôi chưa bao giờ ăn. Thích ăn nên tôi cũng biết "lăn vào bếp". Nói về nhạc, tôi nghe đủ loại: cổ điển, Rock, Pop, Jazz,... cũng như nhạc thuần-túy các nước (World music), chỉ trừ có nhạc Rap thì nghe chưa lọt tai. Du-lịch thì tôi đã được đi thăm viếng rất nhiều vùng trong rất nhiều quốc-gia. Nhưng nói cho cùng, tôi đã trở thành bách-khoa một phần vì nhu-cầu đưa đẩy mà thôi. Lúc trước, gia-đình tôi không được khá giả lắm, thịt cá trên bàn ít nên tôi chỉ có nước xuống bếp thanh toán trước nào đầu gà, cổ gà, chân gà, nào xương heo, xương bò, nào hột xoài, nào cùi dừa,... và tôi đã tập ăn đủ thứ (tôi quan-niệm bất cứ món gì, nếu đã có người thích và ăn thì tôi cũng có thể thấy ngon). 
Khi đi du-học thì bất đắc dĩ tôi đã phải học nấu ăn, giặt giũ, là quần áo, khâu vá, lên gấu quần, tự cắt tóc, ... và đi làm hè để kiếm thêm tiền. Lúc ra làm riêng, tôi đã phải tập kế-toán, lo việc hành chánh, sửa chữa máy vi-tính, đi tìm khách, làm đủ mọi nghề.

image
Trong nhà thì tôi đâm ra hí hoáy, sửa chữa lặt vặt (bricoleur / handy man), việc gì quẫn kẹt lắm mới phải gọi thợ. Tất cả cũng vì nhu-cầu đòi hỏi thôi, chả vì giỏi giang gì.
Và cuối cùng, câu "master of no one" lại càng áp dụng cho tôi. Tôi đào rộng nhưng không sâu nên gặt hái thì chả được bao nhiêu. Ngày hôm nay, anh kỹ sư về hưu cũng chỉ "tàng tàng", chả giàu chả sang, chả nghèo chả đói. Sửa chữa gì ở nhà thì được chứ ra ngoài thì làm gì dám? Nấu ăn thì không sợ đói nhưng không thể nói là tay đầu bếp giỏi. Tán phét thì đề-tài gì cũng nhảy vào, nhưng vào chi-tiết chút thì lại nhảy ra. Về nhạc thì đàn gẩy phừng phừng để tự đệm chơi ở nhà chứ lên sân-khấu thì xấu mặt vợ lắm, và hát thì chỉ hát đỡ cho vợ lấy hơi lại thôi. Văn thơ thì không dám tự xưng văn sĩ, thi sĩ gì cả. Thể thao thì món gì cũng chỉ trung bình. Đôi khi, nhìn chung quanh mình, cũng cảm thấy chút tủi thân lắm (hic hic).
image
Nhất nghệ, bách nghệ, vạn nghệ, miễn là có nghề nuôi thân là mừng rồi. Bàn cho vui, cho qua ngày, qua tháng vậy thôi chứ mỗi người một tính, mỗi người một số phận, bước qua sao khỏi? Tuy nhiên, có một nghề mà đàn ông chúng ta không bao giờ có thể thể lơ là được là nghề phụng-sự vợ, có đúng như vậy không các chị?

image




Yên Hà
tháng 8, 2013

Chuyện tiếu lâm thời hiện đại

image
Ở VN thỉnh thoảng lại xảy ra chuyện khó tin, cười ra nước mắt, như trước đây ông Sáu Lèo đánh cờ độ một ván 5 tỉ đồng, rồi bà Hồng Ly “đại náo” trụ sở UBND tỉnh... Mới đây lại có một chuyện “bi hài” không kém: Một “đại gia nông thôn” trong lúc ăn nhậu đã nổi hứng thách thức một chị phụ nữ nếu dám… cắn “của quý” của ông ta thì ông này sẽ trả 100 triệu đồng.
Chị phụ nữ cắn thật, nhưng “đại gia nông thôn” lại quỵt tiền, quay ngược lại tố cáo chị ta “cố ý gây thương tích”, còn chị nọ kiện ông ta ra tòa đòi trả 100 triệu đồng đúng như giao ước. Khi chuyện đã ra tòa, tất nhiên các quan tòa phải phân xử.

Chuyện kỳ cục này xảy ra từ một bữa nhậu.

image
Xã Mỹ Thành Bắc là vùng quê chuyên trồng lúa lâu nay được đánh giá là xã nghèo khó của huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang, nhưng ông Trần Thanh Hiền (64 tuổi, ở ấp 3, xã Mỹ Thành Bắc, huyện Cai Lậy, tỉnh Tiền Giang), là cán bộ Hội Cựu chiến binh ấp 3, xã Mỹ Thành Bắc). Ông nổi tiếng là một đại gia xứ lúa khi có trong tay hơn 700.000m2 ruộng, nhà cao cửa rộng và thường tổ chức ăn nhậu tưng bừng. Không chỉ giàu có, ông lại nằm trong thành phần là "quan chức xã". Đại loại, ông vừa có tiền, vừa có quyền. Ở quê, người như ông có thể gọi là thành đạt, có thể được nhiều người ngưỡng mộ rồi.
Còn bà N.T.L cũng đã gần tứ tuần cũng có “của ăn của để” với nghề buôn bán thịt heo.
Một ngày giữa tháng 3 năm 2013, ông Hiền trên đường đi thăm ruộng về thì gặp một đám nhậu gồm nhiều người quen trong nhà ông Sáu Ch, trong đó có bà L.
Thách thức kỳ quái
Sau khi uống hết mấy lít rượu đế, ông Hiền bất ngờ tuyên bố với mọi người trong bàn nhậu: “Nếu bây giờ con L dám cắn c... của tao một cái thì tao sẽ trả cho nó 100 triệu đồng, không thiếu một cắc”.
Lúc đầu những người trong bàn nhậu tưởng ông Hiền nói chơi, nên không ai để ý, tiếp tục ăn nhậu, đùa giỡn.
Nhưng một lúc sau, ông Hiền nhắc lại lời thách thức khi nãy, đồng thời thò tay vô quần kéo “của quý” ra “khoe hàng” để tăng thêm trọng lượng của lời thách thức. Đến lúc này thì đám bạn nhậu của ông Hiền tá hỏa, trong khi bà L không có phản ứng gì.
Cuộc nhậu lại tiếp tục diễn ra tưng bừng, nhưng chỉ vài phút sau ông Hiền lại tiếp tục lên tiếng thách thức bà L.

image
Ông T.T.H, nhân vật chính của vụ việc.
Thậm chí ông Hiền cho rằng bà L không dám cắn và liên tục móc “thằng nhỏ” ra ngoài vừa khoe hàng, vừa tiếp tục lớn tiếng thách thức, vẫn giữ cam đoan nếu bà L dám cắn thì ông ta dám trả 100 triệu đồng, đồng thời nằm xuống cho bà L… dễ cắn.

Lần này, khi mọi người chưa kịp phản ứng, bà L nhào sang chụp “thằng nhỏ” của ông H cho vào miệng… cắn một nhát. Ông H đau đớn kêu trời, còn bà L thực hiện xong việc ông H thách thức thì quay sang đòi ông “đại gia” này phải chung đủ 100 triệu đồng như đã cam kết. Hai bên gây gổ ầm ĩ, đám bạn nhậu sau một lúc sững sờ trước việc làm của bà L, liền quay sang can gián cả hai người, sau đó trận nhậu giải tán.

image
hình minh họa
Cả hai cùng đệ đơn kiện
Mấy hôm sau, bất ngờ ông H đệ đơn ra UBND, Công an xã Mỹ Thành Bắc kiện bà L đã “cắn của quý” của ông ta gây thương tích trong lúc ông ta… nhậu say không biết gì hết.
Không chịu thua, bà L cũng nộp đơn đến UBND và Công an xã Mỹ Thành Bắc, thưa ông H không chịu thực hiện lời cam kết, quỵt của bà 100 triệu đồng. Trong đơn, bà L nói số tiền 100 triệu đồng ông H bắt buộc phải bồi thường vì đã… mướn bà “cắn của quý” của ông ta, có nhân chứng. Đến lúc này thì sự việc vỡ lở và lan ra khắp xã, trở thành câu chuyện “thời sự” nổi nhất vùng quê lúa trong mấy tháng qua.
Kiên quyết đưa ra tòa
Sau khi nhận được đơn thưa, vào ngày 1-4-2013, các cơ quan của xã mời ông H và bà L đến trụ sở UBND xã để giải hòa, khuyên hai nhân vật chính của sự việc “vô tiền khoáng hậu” này nên tự thương lượng vụ việc, nhằm “trấn an dư luận”.
Tuy nhiên, sau một buổi làm việc, bất chấp các ý kiến hòa giải, ông Hiền và bà L đều nhất quyết giữ nguyên quan điểm của mình và yêu cầu chuyển vụ việc kỳ khôi này ra Tòa án huyện Cai Lậy để giải quyết.
Phiên tòa độc nhất vô nhị và mâu thuẫn “bí ẩn” từ trước
Sáng sớm ngày 22-7-2013 vừa qua, hàng trăm người dân đã tụ tập trước sân Tòa án huyện Cai Lậy để chứng kiến phiên tòa có một không hai xử vụ thách cắn “của quý”, thế nhưng phiên tòa hoãn đến đầu giờ chiều.

Theo đơn kiện của chị L., vào ngày 20-1-2013, chị đã bán lòng và xương heo cho ông Hiền với giá 1,7 triệu đồng để ông Hiền làm tổng kết năm của chi hội Cựu chiến binh. Ông Hiền yêu cầu chị L. kê số tiền lên thành 2,2 triệu đồng, chị L. đồng ý nhưng sau đó thấy sai nên chị làm tường trình báo cáo với chủ tịch xã. Từ đó, ông Hiền thù chị, luôn kiếm cớ gây sự, dùng những lời lẽ thô tục chửi bới, xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm chị.

image
hình minh họa
Vẫn theo đơn kiện của chị L., ngày 12-3, chị L. tham gia tiệc nhậu tại nhà ông Sáu Ch. cùng sáu người khác, sau đó thì ông Hiền đến. Ông dùng những lời lẽ khó nghe chửi bới chị và có những hành động thô tục nhắm vào chị. Cụ thể, ông cởi quần ra và nói chị cắn vào “thằng nhỏ” của ông thì ông đưa 100 triệu đồng. Những người xung quanh đã can ngăn nhưng ông Hiền cứ tiếp tục. Quá bực tức trước lời lẽ và hành động đó, chị L. đã phản ứng (cắn “của quý” của ông Hiền). Sau đó, ông H. lấy ghế định đánh chị nhưng được mọi người can ngăn kịp thời…
Những lời khai trước tòa

Tại tòa, bà N.T.L yêu cầu ông T.T.Hiền bồi thường 80 triệu đồng, gồm 50 triệu đồng bồi thường nhân phẩm, danh dự, uy tín; 10 triệu đồng bồi thường thiệt hại trong những ngày bà không đi bán hàng được, 20 triệu đồng cho chi phí đi lại, thu thập chứng cứ... Bà L rút lại yêu cầu buộc ông Hiền phải công khai xin lỗi trước bà con trong xã, mà chỉ xin lỗi trước tòa.

Trước tòa, bà L thừa nhận có cắn “của quý” của ông Hiền. Bà nói: “Vì ông Hiền nhiều lần vạch quần đưa “thằng nhỏ” ra khiêu khích, nói tôi cắn thì cho 100 triệu đồng. Vì cảm thấy bị nhục mạ danh dự người phụ nữ, không kiềm chế được nên tui đã cắn”.
Tòa hỏi có biết cắn như vậy mà gây thương tích nặng thì sẽ bị xử lý hình sự không, bà L nói: “Tui biết gây thương tích là có tội nhưng ảnh khiêu khích, tui bị kích động nhiều quá nên cắn để ảnh chừa”.
Về phần ông Hiền, ông chỉ thừa nhận có nhậu với bà L và bảy người khác, nhưng do say quá nên không biết gì. Ông nói: “Chỉ khi bị cắn thì mới giật mình thức dậy và được hai người trong bàn nhậu đưa lên võng nằm”.

Ông Hiền cho biết thêm, sau khi về nhà ông mới thấy đau, xem lại thì thấy bị xước miếng da nhỏ nên không yêu cầu bồi thường. Trước yêu cầu bồi thường của bà L, ông Hiền nói: “Chị L chẳng mất mát gì mà đòi bồi hoàn”.

image
Ông H cũng không thừa nhận chuyện mình vạch quần thách thức bà L cắn “của quý”. Khi tòa hỏi: “Anh không vạch ra sao chị L. cắn?”, ông Hiền ấp úng cho rằng mình say quá nên không biết. Hội đồng xét xử đã cố gắng hòa giải để hai bên thương lượng nhau, nhưng cả hai không ai nhường ai. Phiên tòa tạm dừng chiều 22-7, sáng 23-7 tiếp tục phần tuyên án.
Buổi sáng 23-7 vừa qua, phòng xét xử Tòa án huyện Cai Lậy tiếp tục chật kín người hiếu kỳ đến chờ nghe Hội đồng xét xử tuyên án.

image
Cả phòng xử án im phắng phắc nghe tuyên án, mọi người chỉ ồ lên xôn xao khi chủ tọa phiên tòa tuyên bác yêu cầu của bà N.T.L (đòi bồi thường 80 triệu đồng) vì không đủ căn cứ. Rời khỏi phiên tòa, bà N.T.L như vẫn còn ấm ức, bà tuyên bố chắc nịch là sẽ kháng cáo. Trong khi đó, một số người không có điều kiện xem phiên tòa đã hỏi: “Có tái hiện lại hiện trường không nhỉ?”
Những chuyện bên lề sau phiên tòa

image
Sau phiên tòa, từ khi cái chuyện thách đố được một tờ nhật báo lớn loan tin, rồi nhiều tờ báo khác đưa tin theo, ông ra đường gặp ai cũng ngại ngần. Ông Hiền nói: “Tui có gọi cho nó (ý nói chị L.) mấy lần, nói có gì nó lên nhà tui thương lượng. Chứ cái chuyện đó hay ho gì mà làm ầm ĩ, người ta xì xào nghe mắc cỡ quá. Nhưng mà, nó không có chịu lên". Và cũng có người bàn rằng chị L. chỉ “cắn cảnh cáo” thôi nên ông Hiền mới bị sứt tí da, chứ nếu chị L. “cắn thật” thì ông Hiền “đi đứt” rồi.

Còn về phía chị L, chị xấu hổ lắm, chị tâm sự: "Ông chồng tui từ Sài Gòn nghe tin, về tìm tui la cho một chặp nên thân. Xong bạt tai tui mấy cái vì làm cái trò không giống ai. Có điều, ổng nói phải kiện thằng cha già mắc dịch này đến nơi đến chốn, đừng nghĩ có tiền rồi muốn làm gì ai đó thì làm”. Chị có sạp thịt heo ngoài chợ, từ ngày xảy ra chuyện đến giờ, vẫn chưa dám ra chợ bán hàng lại, chị ngại điều tiếng thiên hạ. Chị cho biết thêm, thật ra còn một nguyên nhân khác nữa.

image
Chuyện đó bắt đầu từ bữa rượu khác của một người hàng xóm, khi uống rượu có ông Hiền, chị L. và một chị là người yêu cũ của ông Hiền cùng mấy người hàng xóm khác. Nhậu say, ông Hiền và người yêu cũ ngồi rủ rỉ về “những ngày xưa thân ái”. Cao hứng, người yêu cũ còn lôi đặc điểm ít người biết của ông Hiền ra nói để chứng minh sự thân mật ngày trước của mình. Chị L. nghe vậy chắc chướng tai, nên nói móc này kia kia nọ. Từ đó sinh thù hận giữa hai người.

Cho đến nay chị L. quyết kháng cáo. Chưa biết cái thứ chuyện tiếu lâm thời đại này sẽ đi đến đâu, ai được ai thua? Nhưng chắc chắn chuyện sẽ được lưu truyền lại trong kho truyện tiếu lâm dân gian có thật cho mấy ông nhậu tha hồ bú khú.

Văn Quang

‘cắt chim’ chồng

image

GARDEN GROVE (VB) -- Một bài học rất lớn cho những người đang làm hồ sơ ly dị vợ hay chồng: đừng ăn hay uống bất cứ thứ gì mà người hôn phối cũ mời.
Trường hợp này được thấy rõ trong cách bà Catherine Kiều Becker, 48 tuổi, một người Mỹ gốc Việt ở Garden Grove, đã trộn thuốc mê vào bữa ăn tối để rồi trói ông chồng lại, và dùng dao cắt đứt “chim” của người mà bà đang làm thủ tục ly dị, và rồi quăng ‘chim” này vào máy xay rác, bấm nút điện cho xay luôn.


Hôm Thứ Tư, bà Kiều Becker đã ra trước tòa về cáo buộc tội hình sự: tra tấn, cắt thân thể, và trong trường hợp gia trọng vì gây thương tích lớn cho cơ thể và việc dùng dao tấn công.
Bà Kiều Beacker trong phiên tòa đã rũ mái tóc dài để che khuôn mặt. Bà được tòa bổ nhiệm một luật sư công. Thụ lý hồ sơ sẽ tiếp tục vào ngày 22-7-2011 tới cũng tại tòa Westminster.
Nếu bị xử có tội, bà có thể bị án tối đa là chung thân. Hiện bị giam ở nhà tù Quận Cam và không được đóng tại ngoại, trong khi chờ giám định y khoa tâm thần.

image

Chồng bà được tòa cho ẩn danh, 60 tuổi, hiện nằm chữa trị ở bệnh viện UCI ở Orangre.
Vào lúc 9 giờ tối Thứ Hai, cảnh sát tới căn condominium trên đường Flower sau khi một phụ nữ gọi số 911, và nói cần cấp cứu y khoa. Bà Kiều Becker mở cửa đón cảnh sát vào, nói rằng chồng bà trong phòng ngủ, và nói rằng “Ổng đáng đời lắm.”
Cảnh sát thấy người chồng bị trói vào giường, máu chảy lênh láng từ hạ bộ. Bà Kiều Becker bị cáo buộc đã dùng một thuốc độc hay thuốc mê bỏ vào thức ăn để làm ông chồng ngủ li bì, rồi bà trói ông vào giường; tới khi ông chồng chợt tỉnh dậy, thì bà mới lấy con dao bếp dài 10 inches (25.4 centimét) để “cắt chim.”
Cảnh sát Jeff Nightengale nói, “Ông ta tỉnh dậy, rồi bà ta mới cắt đứt ‘chim’ của ông ta.”
Bà Kiều ném ‘chim’  vào máy xay rác, bấm nút điện cho máy chạy. Cảnh sát nói đã tìm được vài mảnh, đã đưa về cho UCI.

Ông chồng kể với cảnh sát là ông thấy thức ăn do bà Kiều mời có gì sai lắm.
Hai người gây nhau về những người bạn cư ngụ trong nhà họ.
Hai người cưới nhau ngày 29-12-2009 tại Tehachapi, Quận Kern. Họ ly thân vào tháng 4-2010, và ông chồng nộp đơn ly dị tháng 5-2011, lý do “không hòa hợp nổi,” theo hồ sơ tòa. Họ chưa có con nào.

Báo Register kể rằng, hàng xóm tên Phương-Anh Phạm nói là 2 người kia trông thân thiện và có vẻ hợp nhau, “Thiệt nghạc nhiên vì quan hệ của họ có vẻ gắn bó nhau. Tôi cảm thấy bà ta không làm thế với ổng đâu.”
Bà Kiều Becker sinh ở Việt Nam, có vẻ sống ở Mỹ ít nhất là 7 năm, gặp trở ngại tài chánh.
Báo Register nói rằng có một phụ nữ trùng tên và cùng tuổi đã có điạ chỉ ở Mỹ từ 2004, tất cả địa chỉ đều ở Quận Cam. Lúc đầu, ngụ ở Westminster, rồi dọn sang Santa Ana, trươc khi về sống, kể từ tháng 4-2010, tại điạ chỉ Garden Grove này.

Hà Giang/Người Việt


GARDEN GROVE (NV)- Một phụ nữ gốc Việt, có tên là Catherine Kieu Becker, bị cảnh sát bắt giam tối 11 tháng 7, vì bị cáo buộc đầu độc chồng, cắt đứt dương vật của ông, bỏ vào máy xay thức ăn (garbage disposal), rồi gọi 911, xin cấp cứu.
Tin này do Sở Cảnh Sát thành phố Garden Grove thông báo.

image
Bà Catherine Kiều Becker lúc bị cảnh sát Garden Grove bắt giam.

Trung Úy Jeff Nightengale, thuộc sở Cảnh Sát Garden Grove cho biết, đáp ứng lời một phụ nữ gọi 911 cầu cứu, cảnh sát đến căn nhà ở khu phố số 1400 đường Flower Street, thành phố Garden Grove, vào lúc 9 giờ tối thì thấy một người đàn ông da trắng, 51 tuổi, bị trói vào giường và máu chảy ở phần dưới cơ thể.

image
Hình minh họa

Người đàn ông, danh tánh không được tiết lộ, được đưa đi khẩn cấp tại bệnh viện UCI Medical Center ở Orange, và đang trong tình trạng nguy kịch, tuy đã ổn định.
Người đàn bà tên Catherine Kieu Becker, 48 tuổi, bị cáo buộc bỏ chất độc vào bữa ăn tối, khiến chồng bà ngủ say. Sau đó bà trói ông vào giường, rồi dùng dao cắt đứt của quí.
Bà Kiều bị bắt với tội danh gây thương tích trầm trọng, giữ người trái phép, tấn công bằng vũ khí nguy hiểm, dùng dược chất với chủ ý phạm tội hình sự, đầu độc và hành hạ người phối ngẫu.

Bà Kiều hiện đang bị giam tại nhà tù Quận Cam, California, với tiền tại ngoại là $1 triệu.
Tiếp xúc với phóng viên nhật báo Người Việt qua điện thoại, Trung Úy Jeff Nightengale, phát ngôn viên Sở Cảnh Sát Garden Grove xác nhận bà Kiều là người gốc Việt, còn “chồng bà là người da trắng.” Ông cũng cho biết sự việc còn đang trong vòng điều tra, và “chưa ai biết lý do” tại sao bà Catherine Kieu Becker “dùng con dao nhà bếp dài 10 inch” để cắt đứt dương vật chồng mình.
Cũng theo Trung Úy Jeff Nightengale, trong mấy chục năm làm việc, chưa bao giờ ông gặp phải “sự kiện kinh hoàng” như vậy.
Khi cảnh sát đến nhà, bà Kiều chỉ nói: “Ðáng đời ổng.” (He deserved it)
Trung Úy Jeff Nightengale kể: “Sau khi bất chợt thốt lên câu ‘Ðáng đời ổng!’ khi cảnh sát ùa vào căn apartment lúc khoảng hơn 9 giờ tối ngày 11, bà Catherine Kieu Becker từ chối không nói gì với ai nữa.”
Thông cáo báo chí của sở cảnh sát cho biết hai vợ chồng bà Kiều đang xúc tiến thủ tục ly dị.
 
image
Xe của các đài truyền hình đậu dài trên con đường trước chung cư 14171 đường
Flower Street.

Trả lời câu hỏi của Người Việt về những thủ tục pháp lý kế tiếp, Trung Úy Jeff Nightengale cho biết bà Kiều có lẽ sẽ phải ra phiên tòa đầu tiên ngày mai, còn cảnh sát thì sẽ “điều tra xem thức ăn có bị đầu độc không, và chất độc là gì.”
Khoảng 4 giờ chiều ngày 12 tháng 7, xe van của các đài truyền hình đậu dài trên con đường trước chung cư 14171 đường Flower Street, nơi xảy ra tai nạn, và dân cư đứng túm tụm chung quanh bàn tán.
Ông Linh, khoảng hơn 40 tuổi, nhà ở đối diện với chung cư, cho biết lúc 5:20 sáng, khi ông rời sở đi làm thì thấy vài chiếc xe cảnh sát còn đậu hai bên đường. Không hiểu là chuyện gì, và về đến nhà đọc tin thì mới biết. “Từ suốt bao lâu nay, đây là lần thứ hai tôi nghe về chuyện này. Chuyện trước xảy ra ở Việt Nam, cách đây cũng gần hai chục năm rồi.”
“Ðúng là chuyện Hoạn Thư tân thời!” Ông Linh nói.
Ông Trung, khoảng 45 tuổi, cũng có nhà ở đối diện cho biết nghe chuyện mà cứ tưởng chuyện phim ảnh, và phát biểu: “Thật là không thể nào tưởng tượng nổi!”
Ông nói thêm: “Thật không ngờ là chuyện thật, xẩy ra ngay gần nhà mình, ngay trong cộng đồng người Việt mình.”
Bác Huê, khoảng 60 tuổi, nhà ở cùng đường và sát với khu chung cư cho biết đêm qua khoảng gần 11 giờ thấy xe cảnh sát kéo đến rất đông, nên rất hoang mang, cứ lâu lâu kéo màn cửa ra xem có chuyện gì. “Thấy cảnh sát ở đó suốt đêm, trời sáng tỏ mới kéo đi, tôi lo lắm, chiều mới được con cháu cho biết đài truyền hình đã đưa tin nên mới yên tâm.”
Bên trong chung cư, một người đàn ông da trắng, đứng tuổi, ở apartment số 12, cho biết ông là hàng xóm của ông Becker.
Ông hàng xóm bày tỏ “đau xót” cho bạn mình.
Nhiều người cho rằng, nếu bị buộc tội, bản án của bà Kiều sẽ nặng nhẹ tùy theo tình trạng của ông Becker.
Trung Úy Jeff Nightengale cũng cho biết thêm, người ta đã nhặt được những phần bộ phận của ông Becker, mang đến nhà thương, nhưng không ai biết là giải phẫu sẽ có kết quả hay không.

image

C qun Cam my hôm rày chn đng
Đ
ng mày râu nghe thy phi kinh hn
M
t bà kia trước đ v hôn nhơn
Đã c
t b ca chàng không thương tiếc
---------------------
Nàng l
p kế mi chng v yến tic
B
thuc mê ông ăn phi lăn nhào
Trói ch
t vào giường và cm sn con dao
Đ
i chàng tnh mi ra tay ca thiến
Máu Ho
n Thư như bà này qu hiếm
"Ho
n" ông xong , bà vt vào máy xay lin
Ph
n "mm" kia sao còn được y nguyên
Mu
n ráp li thánh y đành thúc th
Cũng còn may bà g
i ngay cp cu
N
ếu đ lâu , ông chc hn v tri
C
nh sát đến , bà nói "hn đáng đi"
Đáng đ
ược sng tr thành tên thái giám???
Tin gi
chót ông thoát cơn nguy nn
Nh
ưng mun như xưa bác sĩ cũng đau đu
B
i mi hay "Yêu" và"Hn" như nhau
"Yêu" càng l
m thì "Hn" tình cũng lm
Báo chí nói m
y ông nên suy ngm
"L
chia tay đng có nhn li mi
Ăn u
ng gì đến ni phi lôi thôi
Trúng đ
c kế nên thân tàn ma di"
"Ng
ười ph n mà đàn ông M đang e ngi
Có th
vào tù lãnh án chung thân"
Ôi! hôn nhân ....Duyên s
hay n nn???

Xuan Son



Tại Sao Người Đàn Bà Trở Nên Bạo Hành



image
Huy hiệu của những người chồng bị vợ bạo hành ở Mỹ.

Có rất nhiều nguyên nhân bên cạnh các lý do hỷ nộ ái ố, tâm tánh, hoàn cảnh, ghen tương, suy bì ganh tị...1- Kinh nguyệt, có thai và lúc mãn kinh. Xáo trộn hormones sinh dục gây ảnh hưởng đến sự tiết chất serotonine từ não. Nồng độ Serotonine quyết định sự vui buồn và tâm tánh của chúng ta. Serotonine giảm thì gây buồn chán trầm cảm và lúc serotonine tăng cao thì vui.
Điện xẹt không báo trước. Đang vui bà ta có thể bực tức nổi xung thiên lên bất tử làm anh chồng đỡ không kịp.
2- Lạm dụng rượu (alcohol abuse)
Rượu có ảnh hưởng đến não và dẫn đến bạo hành không mấy hồi. Tuy nhiên đây có thể nói là không phải một vấn đề của đa số phụ nữ Việt Nam.
3- Xáo trộn tâm lý (Psychological disorders)
Nhân cách bị xáo trộn (personality disorder) nên người đàn bà cảm thấy cần phải hành hạ ông chồng mình. Khoa học gọi tình trạng nầy là xáo trộn nhân cách giáp ranh Bordeline personality disorder (BPD) và thường thấy xảy ra ở phụ nữ. Từ 1% đến 2%  các bà các cô có thể mắc bệnh nầy. Các bác sĩ tâm thần cho rằng ít nhất 50% trường hợp các bà nổi cơn đều bắt nguồn từ BPD.
BPD còn liên hệ đến ý tưởng quyên sinh, thay đổi tâm tánh bất thường, nói dối , tình dục có vấn đề và lạm dụng rượu.

Vài bài thơ của dân nhậu

image

Thơ… say

Cm sào gia vũng hn ta
Thuy
n cô đơn đ
i trăng ngà đêm nay
R
ượu vài chén, d
gì say?
Đêm ch
ưa chu đến bi ngày chưa đi!
Dăm chén na, ch thm chi
Thi
ếu vng tri k có gì vui đâu!

cũng ung ch nhn sao?
Tránh bu
n vô c ln vào nhiu ta!
Bu rượu cn, cht nhìn ra
Tr
i đen như mc, thế
là không Trăng!
Đ
ng dy, chuế
nh choáng ngã lăn
L
m bm chi ra: Cha thng nào xô!

image


Ung rượu ngày xuân

Chén mt, rượu ta ngát hương
Tê tê đu lưỡi, vn vương men tình
Hương đi, hương rượu lung linh
Ta ngi ung rượu, rượu thành bn ta…
Chén hai, rượu bc li ra
Mm môi, câu chuyn gn xa… ri bi…
Nói li, người chng hiu li
Rượu ngi ung rượu, mình ơi hi mình!
Chén ba, rưọu ging nước sông
Bao nhiêu chén rượu dc lòng, cn ngay.
Chng hay chén rượu vơi đy
Rượu ngi ung bn, rượu say ch cười!
Chén đu, người ung rượu say
Chén hai, rượu ung rượu, đy ri vơi…
Chén ba, thì rượu ung người
Chén tư, người - rượu đi đi nhà ma…

image

Bia ca !

Bia vào li phi trôi ra
Hai ta cùng vi bn ta là gì?
Mây xanh thì trên kia
Chân tri mãi b đê xa m
Say ri nói vng thành thơ
Điu nào nht, điu nào tha chng sao!
Nghĩa tình - đĩa nm su hào
S đi - nước chm l nào khác nhau?…
Ly sâu cùng vi tóc sâu
Riêng chung, mn ngt biết đâu mà lường!..
Ng tư chia bn con đường
Khoác vai nghiêng ng bn phương đt tri…
Tim lay, bng nng, nghn li
Mình, ta, hai đa, cùng ngi, cùng đi…
Nào ung bia! Nào cn bia!
Bun chung hai đa say chia mi người.
Lý Bch ơi! T Như ơi!
Thương cho các v, sng thi không bia!
image
Đi tôi đã chết t hôm cưới
Mượn bn mượn bè đ cười vui
Beer Lite tôi ung quên ngày tháng
Bn bè thương nh ung beer Lite

Tôi b nhu ri

Nếu biết rng tôi b nhu ri
B
kè, quán cc v
ng bóng tôi
Vui bu
n chiến hu, ai chia s
?
Có d
i, có hn cũng thế thôi.
Nếu biết rng tôi b nhu ri
Đá banh Word cup b
n đơ
n côi
M
t mình quán vng, ai bàn lu
n?
Hò hét m
t mình, chng ni sôi.
Nếu biết rng tôi b nhu ri
Ti
c tùng, cưới hi l g
p tôi
Xin đ
ng mi m
c thêm vô ích
V
nguýt làm sao ung cho trôi?
Nếu biết rng tôi b nhu ri
Bao năm b
ng hu cũng b
thôi
B
n bè gp mt không bia rượu
Câu chuyn tâm tình khó nói trôi.
Nếu biết rng tôi b nhu ri
Chi
u chiu tan s khó kiế
m tôi
V
i v vi v cho yên
n
B
n bè dè bĩu cũng mc thôi.
Nếu biết rng tôi b nhu ri
Anh em chi
ến hu s
khóc tôi
Đ
i trai mà thế xem như b

Cái th
ng tình nghĩa bc như vôi.

image
 
 


No comments:

Post a Comment

quangnm