Bệnh đục thủy tinh thể (Cataract)
Bác sĩ Trương Vĩnh Toàn-Bác sĩ Nguyễn Văn Đức –
Bệnh đục thủy tinh thể trong mắt (chúng ta
hay gọi bệnh “mắt cườm”) là nguyên nhân gây mù lòa nhiều nhất trên toàn
thế giới. Hiện thế giới có khoảng 30 triệu người không may mù lòa, trong
đó 15 triệu trường hợp là do đục thủy tinh thể.
Hàng năm, bệnh đục thủy tinh thể khiến chương trình Medicare dành cho người cao niên ở Mỹ tốn nhiều tỉ mỹ-kim.“Cataract” là gì?
Chữ “cataract” từ chữ La-tinh “catarractes”, có nghĩa “thác nước”: nhìn bằng mắt thường từ ngoài vào, thủy tinh thể bị đục trông như những dòng nước cuồn cuộn của một thác nước đang chảy.
Mắt giống y một máy ảnh, loại tự động điều chỉnh để cho ảnh rõ (auto focus). Ngay phía đằng trước máy ảnh có một ống kính, giúp thu các hình ảnh bên ngoài ta muốn chụp. Trong mắt cũng có một bộ phận nằm phía trước gọi là thủy tinh thể (lens), giống như ống kính của máy ảnh. Thủy tinh thể có nhiệm vụ điều chỉnh ánh sáng và các hình ảnh bên ngoài, rồi rọi chiếu chúng lên trên võng mạc (retina, màn ảnh nằm phía sau mắt, ví như phim của máy ảnh), giúp ta trông thấy mọi vật bên ngoài được rõ ràng.
Thủy tinh thể của mắt đục dần theo thời gian. Giống như trong một máy ảnh mua với giá tiết kiệm, dùng lâu, ống kính đục dần, hết còn trong như ngày đầu ta mới đem máy về. Một số yếu tố khiến thủy tinh thể mau đục hơn.
Nhìn thế giới sinh động bên ngoài qua một thủy tinh thể bị đục chẳng khác gì ta từ trong nhà nhìn ra bên ngoài qua một kính cửa sổ dơ, lâu ngày chưa lau. Hoặc, như ta nhìn gió thu nhè nhẹ lay động cây cành trong vườn qua một cửa kính mù sương thu.
Như vậy, qua một thủy tinh thể đục, mọi vật ta nhìn thấy nhòa đi, không rõ nét. Đã thế, khi ta nhìn thẳng vào ánh mặt trời hoặc ánh đèn xe, thị giác càng kém hơn do mắt bị chóa. Nhiều vị không còn lái xe ban đêm, nhận ra các bảng chỉ dẫn bên đường, hoặc đọc những hàng chữ nhỏ trên báo chí được nữa.
Nguyên nhân
Những nguyên nhân được biết hay tạo ra đục thủy tinh thể: tuổi tác (trên 60), chấn thương mắt (trauma), chất phóng xạ (radiation), các bệnh gây viêm mắt (inflammation), những bệnh biến dưỡng và dinh dưỡng (metabolic and nutritional diseases), chẳng hạn như bệnh tiểu đường, sự suy dinh dưỡng.
Ngoài ra, một số yếu tố cũng khiến ta dễ bị đục thủy tinh thể:
- Thuốc lá.
- Rượu.
- Tiếp xúc nhiều với ánh sáng mặt trời.
- Có học vấn thấp.
- Dùng các thuốc steroids (như Prednisone) dài lâu.
Không ai chống lại được thời gian, trẻ mãi không già, song chúng ta có thể bỏ thuốc lá, bớt uống rượu, tránh ra nắng nhiều, và mỗi khi ra nắng nhớ đeo kính mát.
Chữa trị
Bạn còn nhớ, ngày bạn lái chiếc xe mới toanh vừa cắt chỉ ra khỏi “dealer” bán xe, lòng sảng khoái, mũi ngửi mùi xe mới, và qua kính xe trong suốt, mắt bạn nhìn lên bầu trời không gợn bóng mây, nhìn ra bên ngoài cuộc đời ôi sao mà tươi đẹp.
Rồi thấm thoát đã năm bảy năm trôi qua, kể từ ngày bạn sung sướng làm chủ chiếc xe đầu tiên trong đời. Nào ai ngăn cản được sự tàn phá của thời gian. Kính xe bạn không còn trong suốt như trước, nhiều chỗ đã vẩn đục. Nhưng thôi kệ, kính xe hơi mờ chút, song vẫn còn dùng được. Bạn chỉ nhờ chuyên viên thay kính xe thay nó đi, lắp cái mới vào, nếu nó đã tệ quá, khiến việc lái xe của bạn trở thành nguy hiểm.
Ta đã biết, riêng thời gian cũng có thể tạo những thay đổi đưa đến đục thủy tinh thể, như đã làm vẩn đục kính xe của bạn. Việc này không khiến ta phải quan tâm cho lắm. Những thay đổi đầu tiên như vậy thường không gây triệu chứng gì cả, tuy được nhận ra bởi bác sĩ chuyên khoa Mắt khi bạn đến khám mắt. Thủy tinh thể đục chút không có nghĩa là cần mổ chữa ngay, khi chưa có triệu chứng.
Vậy, khi nào mới phải mổ? Nên giải phẫu, mổ lấy thủy tinh thể bị đục ra khi thị giác ta đã kém nhiều và mắt ta bị chóa dữ quá, đeo kính cận cũng chẳng khá hơn, khiến những hoạt động hàng ngày như lái xe, làm việc, đọc sách trở thành khó khăn.
Trước khi mổ, thường bác sĩ Mắt sẽ nhờ bác sĩ chính (primary care doctor) khám cho người bệnh (gọi là preoperative medical evaluation) để ổn định các vấn đề như cao áp huyết, tiểu đường, …, nếu có. (Có cao áp huyết, sáng ngày mổ, tuy phải nhịn đói, song bạn nhớ uống thuốc như thường lệ với một chút nước; với người tiểu đường, có thể bác sĩ Mắt sẽ thu xếp mổ sớm, để người bệnh khỏi phải nhịn đói lâu, và khi về nhà, uống, chích thuốc lại như thường lệ.)
Thời gian gần đây, có nhiều tiến bộ trong phẫu thuật chữa đục thủy tinh thể, khiến các rủi ro trong lúc mổ, các b iến chứng do giải phẫu ít xảy ra hơn trước, đồng thời thị giác cũng trở lại bình thường mau hơn.
Ngày nay ở Mỹ, giải phẫu chữa đục thủy tinh thể đã trở thành một nghệ thuật, không làm đau người được mổ. Giải phẫu thực hiện chỉ trong vòng 30 đến 60 phút. Trong suốt cuộc mổ, người bệnh vẫn tỉnh táo, và sau đó ra về trong ngày, không phải ở lại bệnh viện.
100 người mổ, đến 95 người sau khi mổ, thị giác sẽ trở lại rất tốt. Số người còn lại, mổ xong vẫn không trông rõ nhiều, là vì bị thêm các bệnh của võng mạc (retinal diseases), hoặc vì các biến chứng do giải phẫu (nhiễm trùng, tróc võng mạc, thủy tinh thể nhân tạo đặt vào lệch, v.v.).
Đã qua rồi những ngày xưa trước, khi mổ, có thể nói, mắt bị tách hẳn làm hai mảnh để cố lấy thủy tinh thể ra. Nay, phẫu thuật được làm qua những vết rạch nhỏ xíu. Dưới kính phóng đại cực mạnh, bác sĩ dùng một dụng cụ đặc biệt để thực hiện cuộc giải phẫu. Sau khi thủy tinh thể bị đục được lấy ra, một thủy tinh thể nhân tạo được đặt vào mắt để thay thế cho cái cũ. Chúng ta cứ để nó ở đấy suốt đời.
Ngay buổi tối hôm giải phẫu, người bệnh đã có thể hoạt động bình thường trở lại, đọc sách, đi bộ, ăn uống, xem truyền hình, và đa số đi làm lại sau một tuần. Người bệnh thường sẽ nhìn rõ, không phải đeo kính sau mổ. Một số vị cần đeo kính để lái xe đêm hoặc đọc sách.
Không mổ thì sao?
Còn không mổ thì sao, một khi bệnh đã nặng đến độ khiến ta không còn nhìn được rõ? Người bị đục thủy tinh thể, vì mắt kém, có thể gây tai nạn lúc lái xe, gẫy xương do té ngã, không muốn đi đến đâu, chẳng muốn giao thiệp với ai (social isolation) và mất đi sự tự lập, phải trông nhờ vào người khác trong cuộc sống hàng ngày. Nhiều vị người nhà cho rằng đã lẫn, nhưng sau khi được mổ chữa, tinh thần các vị lại khá hơn, bớt cả lẫn.
Rõ ràng, thủy tinh thể mắt bị đục khiến cuộc đời ta mất nhiều thi vị.
Tóm lại, mắt kém ở người có tuổi có thể vì thủy tinh thể trong mắt đục. Giải phẫu để chữa cần đến khi cuộc sống của ta bắt đầu mất vui do thị giác ta kém nhiều. Hầu hết người được mổ, kể cả những vị mang bệnh tiểu đường, mắt lại sáng, và rất hài lòng sau giải phẫu./.
Hồi Hộp (Palpitations)
Có khi thỉnh thoảng bạn thấy hồi hộp chút, nhưng rồi có người bảo, chết chửa, không khéo bạn bị bệnh tim, khiến bạn sợ cuống lên. Trong tình trạng âu lo tinh thần, theo phản xạ, hệ thống thần kinh giao cảm (autonomic nervous system) trong cơ thể bạn làm việc gấp hơn, thúc tim đập nhanh và mạnh hơn, khiến bạn lại càng dễ cảm nhận những cái đập khó chịu của tim. Vòng lẩn quẩn xảy ra, càng lo, càng thấy tim đập như trống làng, và rồi càng lo ơi là lo.
Hồi hộp hay được nhiều người diễn tả: “tim tôi đập mạnh quá” (pounding), “nó đập như muốn chạy đua” (racing) “sao nó cứ đập nhanh từng chập” (fluttering), “ơ kìa, thỉnh thoảng nó cứ như rớt bịch một cái” (flopping), hay, “hãi thật, tim tôi có lúc nó lại ngưng một nhịp” (skipping). Nói chung, người kêu hồi hộp cảm thấy tim mình đập bất thường.
Song, hồi hộp là một cảm nhận hết sức chủ quan. Có người, khi khám, và làm tâm điện đồ (electrocardiogram, viết tắt EKG, chúng ta hay gọi nôm na là “đo tim”), trời đất, bác sĩ xanh mặt, vì thấy tim đập lộn xộn lắm, nhưng họ không thấy hồi hộp gì cả, còn có người ngược lại, thỉnh thoảng tim mới đập bất thường một nhịp, song họ sợ hãi bắt được ngay: “Đấy, nó vừa đập đến ịch một cái”. Những vị trong trạng thái âu lo căng thẳng thường dễ cảm nhận thấy tim mình đập bất thường, và họ hay nhận rõ được nhịp tim đập về đêm, hoặc vào những lúc rỗi rảnh, nghĩ đến muôn thứ việc, hơn là vào những lúc tất bật làm việc lo kiếm sống. Người có bệnh tim khiến tim đập bất thường nhiều năm thường quen với những nhịp tim đập lộn xộn từ lâu, nên không nhạy cảm bằng những người bình thường, thỉnh thoảng tim đập lộn xộn, họ biết ngay.
Rồi, tim đập nhanh (tachycardia) hoặc lộn xộn (như kiểu “atrial fibrillation”, rung tâm nhĩ) nếu kéo dài lâu, có khi chẳng còn gây hồi hộp gì nữa (kiểu như ta đã chán một người bạn xấu ở với ta đã quá lâu, nên không buồn chú ý tới nữa). Trong khi, thỉnh thoảng, và bất ngờ, tim đang đập bình thường, bỗng dở chứng đập như ngựa chạy, ta thường cảm nhận lập tức, và thấy khó chịu dữ lắm. Hồi hộp đặc biệt nhận thấy rõ, khi nguyên nhân gây hồi hộp mới xuất hiện gần đây thôi, thoảng qua, và lúc có lúc không (chẳng hạn, gần đây hai vợ chồng mới hơi bất hòa, thỉnh thoảng cãi nhau một trận, vào những ngày ấy, bạn cứ thấy tim đập thình thịch, vài ngày sau, vợ chồng làm hòa lại, bạn vui vẻ, con tim không còn làm phiền bạn nữa). Ngược lại, với người tinh thần ổn định, tình cảm thích ứng cùng tình thế (emotionally well-adjusted), vui với thiền, cái hồi hộp dần dần bớt làm phiền họ, khi nó trở thành kinh niên.
Nguyên nhân
Hồi hộp gây do rất nhiều nguyên nhân, trong đó các trường hợp hồi hộp vì nguyên nhân tâm lý chiếm đa số:
- Nguyên nhân tâm lý:
Ta đã biết, tất cả những tình trạng căng thẳng tinh thần đều có thể khiến ta hồi hộp. Đang lái xe ngon trớn, tai nghe nhạc du dương, ta vô tình đạp chân gas cho xe lướt lên. Chợt, ông cảnh sát núp đâu đó, xuất hiện, lái theo sau xe ta, chớp đèn ra hiệu cho ta ngừng xe lại. Ôi, ai không thấy tim đập nhanh, có khi hụt nhịp.
Các bệnh tâm thần, như căng thẳng tâm thần (anxiety), kinh hoảng đột ngột (panic disorder), sầu buồn (depression) đều hay gây hồi hộp.
- Nguyên nhân thể chất:
Nhiều bệnh tim làm tim đập thất nhịp (arrhythmia), hoặc đập mạnh, khiến ta thấy hồi hộp. Ngoài ra, bất cứ khi nào tim ta đập nhanh, đều có thể tạo cảm nhận hồi hộp, chẳng hạn trong các tình trạng thiếu máu, thiếu nước, trong các bệnh cường tuyến giáp trạng (hyperthyroidism), bệnh phổi (suyễn, tắc phổi kinh niên, …), khi đường máu xuống thấp (hypoglycemia), …
- Thuốc dùng:
Nhiều thuốc dùng khiến tim ta đập mạnh, nhanh, gây hồi hộp, chẳng hạn các thuốc nghẹt mũi (Sudafed, Dimetapp, …), một vài loại thuốc suyễn, thuốc cao áp huyết, … Khi đi khám bệnh vì bị hồi hộp, bạn nhớ đem theo tất cả các thuốc đang dùng ở nhà đến cho bác sĩ xem. (Đúng ra, đi khám bệnh lúc nào chúng ta cũng nên mang theo thuốc, để giúp bác sĩ suy luận, định bệnh nhanh chóng).
Ngoài ra, những thứ mà bạn thưởng thức hàng ngày, tưởng rằng không sao, mà thực ra cũng có thể gây hồi hộp: thuốc lá, trà, cà-phê, rượu. Thuốc lá thì chắc chắn nên bỏ rồi (nhất là dạo này nó mắc, bà xã bạn nhằn dữ quá), còn trà, cà-phê, rượu, có dùng, nên bớt đi, bạn nhé.
Định bệnh
Để định ra bệnh nào nó đang hành bạn, khiến bạn cứ hay hồi hộp mất vui, bước đầu, không gì quan trọng bằng lắng nghe bạn kể cái chứng hồi hộp của bạn nó nặng nhẹ thế nào, nó ra làm sao, và nó hay xảy ra trong trường hợp nào.
- Nó nặng nhẹ thế nào?
Bao lâu nó xảy ra một lần bạn nhỉ, và khi xảy ra, nó dữ lắm hay chỉ nhẹ thôi, và có triệu chứng nào khác đi kèm nó không?
Bạn còn trẻ, nếu thỉnh thoảng (vài tuần, vài tháng, …) mới xảy ra một cơn hồi hộp thoảng qua dưới 5 phút, và bạn vẫn khỏe, chả có gì khác, chứng hồi hộp của bạn chắc không đáng cho chúng ta quan tâm lắm. Song nếu nó xảy ra thường lắm, gần như mỗi ngày, mỗi lần nó xảy ra, bạn lại thêm chóng mặt, có khi xỉu, đau ngực, hoặc toát mồ hôi, …, a, nó thuộc loại dữ đây, chúng ta chớ coi thường.
- Nó ra làm sao?
Bạn cố nhớ xem, và kể lại cho nghe, nó ra làm sao? Bạn chỉ thấy một nhịp tim bỗng mất hoặc đập mạnh (single skipped or sudden beat) hay bạn cảm nhận thấy tim bạn đập bất thường luôn một thôi một hồi (bursts of beats). Nếu vậy, xin bạn thử gõ tay trên mặt bàn đây, để diễn tả nhịp tim của bạn lúc ấy nó như thế nào, nhanh và đều như ngựa phi, không nhanh lắm nhưng lộn xộn, xảy ra và chấm dứt bất ngờ hay từ từ xuất hiện và cũng từ tốn ra đi, …
- Hồi hộp hay xảy ra trong trường hợp nào?
Yếu tố nào thường làm cơn hồi hộp của bạn xuất hiện: mỗi lần bạn cãi nhau với ông xã ư (dạo này thấy ông ấy hay đi sớm về muộn!), hay mỗi lần bạn dùng cà-phê, trà, rượu, hoặc một thuốc nào đó, … Lúc ấy, bạn đang vận động hay nghỉ ngơi?
Sau cùng, bạn đang dùng những thuốc gì nhỉ, bạn có nhớ đem hết đến cho bác sĩ xem không?
Trong lúc nghe bạn kể bệnh, bác sĩ kín đáo để ý xem bạn có nét căng thẳng hay buồn sầu không. Bạn càng lộ rõ vẻ căng thẳng, buồn bực, triệu chứng hồi hộp của bạn càng thiên về chứng hồi hộp do nguyên nhân tâm lý. Rồi trong lúc thăm khám sau đó, bác sĩ sẽ khám kỹ tim bạn, xem tim bạn có bị thất nhịp, hoặc có tiếng rì rào nào bất thường (murmur). Khám kỹ phổi bạn nữa chứ, xem bạn có bị suyễn, hoặc tắc phổi kinh niên do hút thuốc lá nhiều và lâu năm quá (chronic obstructive pulmonary disease).
Sau đó, ta sẽ làm tâm điện đồ (EKG), xem cho rõ nhịp tim bạn đập. Nếu tâm động đồ cho thấy quả tim bạn có đập bất thường thực, và cùng lúc ấy bạn đang thấy hồi hộp, thì đúng là bạn hồi hộp vì nguyên nhân tại tim rồi. Còn nếu tâm động đồ bình thường, tốt, nó không cho ta biết gì hơn, vì tim thất nhịp nhiều khi chỉ xảy ra một lúc nào đó ở nhà, khi đến bác sĩ, nó lặn đi, ta không bắt được nó bằng tâm điện đồ. Nên, nếu ngày nào bạn cũng hồi hộp, thấy tim đập bất thường, và tâm điện đồ làm ra chẳng thấy gì cả, để cố bắt quả tang con tim bạn có đập bất thường thực, bạn có thể đeo một máy ghi nhận từng nhịp đập của con tim luôn trong 24 tiếng, gọi là “Holter monitor”. Nếu trong vòng 24 tiếng trong lúc bạn đeo máy ghi nhận nhịp tim “Holter monitor”, máy thấy tim bạn có đập bất thường, và cùng lúc ấy, bạn có triệu chứng hồi hộp (nhưng nhớ bấm vào một nút báo để máy ghi xuống thời điểm lúc bạn đang có triệu chứng), ta có thể kết luận, chứng hồi hộp của bạn quả thực do con tim bạn đập không đều nhịp. Song nhiều khi ngay cả máy ghi nhận nhịp tim “Holter monitor” cũng không khám phá thấy gì lạ, vì trong lúc bạn đeo máy có 24 tiếng, con tim bạn vờ ngoan ngoãn, không dở chứng đập lung tung. Có khi ta phải cầu cứu đến một dụng cụ theo dõi khác, gọi là “event recorder”, không ghi nhận từng nhịp đập của tim, chỉ khi nào bạn thấy hồi hộp, bạn bấm một cái nút, máy mới lập tức ghi chép lại từng hoạt động của tim liên tiếp trong khoảng thời gian 2 phút trước và 2 phút sau khi bạn bấm nút. Cách thứ hai này, dùng “event recorder”, có thể giúp ta theo dõi nhịp tim của bạn (nhưng không ghi nhận, trừ khi bạn bấm nút) từ 2 đến 4 tuần lễ.
Nếu thấy cần, bác sĩ sẽ khuyên bạn làm siêu âm tim (echocardiography), để ta tìm xem hình dáng con tim bạn vẫn bình thường, hoặc có chỗ nào méo mó cong vẹo, khiến nó hay đập mạnh.
Và nếu thấy cần, bác sĩ cũng khuyên bạn thử máu, để chúng ta cùng tìm xem bạn có thiếu máu, thiếu nước trong cơ thể, xáo trộn các chất điện giải potassim và calcium (cao hoặc thấp các chất potassium và calcium đều có thể khiến tim đập thất nhịp), có bị bệnh cường tuyến giáp trạng (hyperthyroidism), hoặc đường máu của bạn xuống thấp, …, những tình trạng hay khiến tim đập nhanh, mạnh, hoặc thất nhịp.
Chữa trị
Chúng ta đã biết, đa số các trường hợp hồi hộp là do nguyên nhân tâm lý, chỉ một số ít trường hợp gây do bệnh thể chất, trong đó có con tim, là cơ quan ai cũng sợ nhỡ nó có gì thì sao.
Rất nhiều trường hợp hồi hộp do nguyên nhân tâm lý, sau khi được bác sĩ lắng nghe, thăm khám và giải thích cặn kẽ, người bệnh yên tâm ra về, rồi dần dần không còn thấy hồi hộp nữa. Một số trường hợp phải dùng đến thuốc an thần để giúp người bệnh bớt thấy hồi hộp. Tất nhiên, nếu người bệnh hút thuốc lá, dùng nhiều rượu, trà, cà-phê, bác sĩ sẽ khuyên họ nên bỏ thuốc lá, bớt dùng rượu, trà, cà-phê.
Còn trên đường tìm kiếm nguyên nhân gây chứng hồi hộp, lỡ tìm thấy bệnh gì có thể là thủ phạm gây hồi hộp, bác sĩ sẽ thử chữa bệnh này, nếu chứng hồi hộp thuyên giảm, mới dám kết luận đây là nguyên nhân chính gây hồi hộp. Ta để ý rằng, nhiều người hồi hộp cả vì lý do thể chất lẫn lý do tâm lý, hoặc một bệnh thể chất, khi tìm thấy, thực ra, lại không phải là nguyên nhân gây hồi hộp.
Bạn hay thấy hồi hộp ư? Bạn đừng vội lo quá, hãy ngồi xuống đây, bình tĩnh kể đầu đuôi câu chuyện cho bác sĩ nghe, bao lâu cơn hồi hộp của bạn xảy ra một lần, nặng nhẹ ra sao, có triệu chứng gì khác đi kèm, khi cơn hồi hộp trỗi dậy, bạn thấy tim đập như thế nào, và thường thì yếu tố nào hay khởi động, khiến cơn hồi hộp nó đến phá bạn. Sau đấy, bác sĩ sẽ thăm khám kỹ cho bạn, và nếu thấy cần, sẽ khuyên bạn thử máu, hoặc làm thêm một ít trắc nghiệm. Thường thì, bác sĩ sẽ báo bạn tin vui, bạn chẳng có bệnh gì nặng, con tim bạn vẫn tốt nguyên. Vì đa số các chứng hồi hộp là do nguyên nhân tâm lý./.
Kiêng mỡ, đúng hay sai?
Pham H. Liem, MD -
Ăn thiếu chất béo (dầu và mỡ) hại sức khoẻ và nguy hiểm đến tính mạng.
Đầu tháng Chín năm nay (2014), trên mục Sức Khoẻ của một nhật báo lớn
ở Mỹ, The New York Times, ký giả Anahad O’Connor đã viết một bài với
nhan đề Lời Kêu Gọi Cho Cách Ẩm Thực Ít Chất Đường Thêm Chất Béo (A Call
for a Low-Carb Diet That Embraces Fat).
http://www.nytimes.com/2014/09/02/health/low-carb-vs-low-fat-diet.html?_r=0
Bài báo này đánh dấu một sự chuyển hướng
quan trọng trong dư luận và truyền thông Mỹ về vấn đề dinh dưỡng từ
kỵ-chất-béo qua thêm-chất-béo trong thực phẩm. O’Connor muốn đưa đến cho
độc giả các bằng chứng khoa học vững chắc cho thấy khi con người ăn bớt
đường bột và ăn thêm chất béo (ngoại trừ trans fat), nguy cơ của bệnh
tim mạch được giảm đi nhiều. Không những thế nó còn giảm lượng mỡ trong
cơ thể và xuống ký rõ rệt nhờ ăn thêm chất béo thay vì chất đường. Kết
quả khảo cứu mới nhất từ Đại Học Tulane, tài trợ bởi Viện Nghiên Cứu Y
Học Quốc Gia Hoa Kỳ (NIH- National Institute of Health), đăng trên
Nguyệt san Y học Annals of Internal Medicine trước đó, cho thấy sự khác
biệt rõ ràng, như đã nói ở trên, giữa nhóm
tiêu-thụ-bớt-đường-thêm-chất-béo và nhóm
ăn-thực-phẩm-có-lượng-chất-béo-thấp như Chính phủ Liên bang và Hội
Chuyên gia Bệnh Tim Hoa Kỳ vẫn đang khuyến khích hiện nay. Điểm đáng chú
ý là cả hai nhóm đều không phải giới hạn lượng calorie tiêu thụ mỗi
ngày như các chương trình dinh dưỡng khác. Kết quả của cuộc thí nghiệm
này chứng tỏ rằng phong trào kiêng cữ chất béo trong thực phẩm trên hơn
ba mươi năm qua ở Hoa Kỳ là sai lầm.
Vì đâu nên nỗi:
Từ thập niên 1950, Y học Hoa Kỳ đã biết rằng lượng mỡ cholesterol cao trong máu có liên hệ đến bệnh tim mạch nhưng nguồn gốc của cholesterol gia tăng trong máu thì vẫn rất mơ hồ. Cholesterol đóng vai trò quan trọng cho sinh hoạt của mỗi tế bào, đồng thời cũng là nguồn cội trong việc sản xuất các kích tố steroids và vitamin D rất quan trọng cho cơ thể. Trong suốt thập niên 1960, các nhà nghiên cứu y khoa xác định một vài chứng bệnh di truyền hiếm (đề nghị bỏ chữ hoi) có thể gây lượng mỡ cao trong máu, nhưng trong đa số bệnh nhân tim mạch, lượng cholesterol đến từ thói quen ăn uống. Một cuộc tranh luận gay gắt xảy ra giữa hai nhóm khoa học gia: Một nhóm tin rằng lượng cholesterol cao trong bệnh nhân là đến từ chất đường trong khi nhóm kia quả quyết rằng cao cholesterol là đến từ chất béo trong thực phẩm. Qua thập niên 1970, Giáo Sư Ancel Keys, thuộc ngành Dinh Dưỡng cuả Đại Học Minnesota, đưa ra kết quả của một cuộc nghiên cứu quan trọng trên bảy quốc gia Âu Mỹ cho thấy rằng tiêu thụ nhiều chất béo bão hoà từ mỡ động vật là nguyên do của cholesterol cao và bệnh tim mạch. Các khoa học gia khác đã nhanh chóng ủng hộ GS Keys và các hội chuyên khoa về tim cùng chính phủ Hoa Kỳ khuyến cáo người Mỹ nên ăn ít chất béo, nhất là mỡ động vật, và các công ty sản xuất thực phẩm nên giảm thiểu chất béo trước khi bày bán trên thị trường.Hậu quả bi đát với vài “nghịch lý”:
Dân Mỹ vào siêu thị mua thực phẩm với các quảng cáo Ít Mỡ (Low Fat) hoặc Không Mỡ (No Fat) to tướng trên nhãn hiệu. Để thay thế bơ mà người Mỹ ưa quẹt vào bánh mì, khoa học gia lại tìm cách làm rắn mỡ thực vật lỏng bằng cách thay thế dạng Cis của axít béo với hydro qua gạch nối dạng Trans gọi là Trans Fat, một chất béo thực vật mới hoàn toàn nhân tạo không có trong thiên nhiên để thay thế bơ (margarine with trans fat). Trong các thập niên kế tiếp, từ 1980 cho đến bây giờ, Hoa Kỳ rồi các nước giàu có trên thế giới bị hoành hành với chứng mập phì và nạn dịch Tiểu Đường loại 2 ngày càng thêm nặng, vì đại đa số người dân nhiễm Hội Chứng Biến Dưỡng do sự kháng insulin trong cơ thể làm mập phì, tăng cholesterol và chất triglyceride trong máu, tăng huyết áp và chứng Tiểu Đường. Cho đến 7-8 năm trở lại đây, nguyên do của nạn dịch này mới được xác định là người Mỹ đã dùng đường và bột ngày thêm nhiều để bù đắp cho số calorie bị mất đi khi họ ăn ít chất béo; chất đường ngọt, nhất là đường fructose, là nguyên nhân của sự tích tụ mỡ trong gan, bụng và cả bắp thịt gây ra chứng kháng insulin (sau khi kháng insulin đã xảy ra thì cả đường glucose cũng trở thành nguy hại). Khách hàng đã phải trả một giá quá đắt về sức khoẻ và sinh mạng vì tiêu thụ các thực phẩm Ít Mỡ và Không Mỡ nhan nhản trên thị trường, trong lúc các bác sĩ của họ tiếp tục khuyến khích dinh dưỡng kỵ chất béo, nhất là mỡ động vật, một cách sai lầm trong suốt 40 năm.Một vài chuyện nghịch lý (paradox) phát hiện trong thời gian này, nhưng khoa học và chính phủ Hoa Kỳ vẫn không quan tâm và suy diễn đúng, vì vẫn còn bị mê hoặc với chính sách giảm chất béo:
Nghịch lý người Pháp
Dân Pháp thích ăn uống ngon miệng nên họ nhất định không ăn giảm chất béo nhất là mỡ động vật, vì làm như thế thức ăn sẽ mất mùi vị. Họ tiếp tục ăn bơ, phó mát, thịt bò, gà vịt ngỗng, heo, trứng…. như thường lệ, nhưng tỷ số mập phì, tiểu đường loại 2 và bệnh tim mạch tại Pháp lại thấp hơn Hoa Kỳ và các nước Tây Âu lân cận. Nghịch lý này được giải thích vì người Pháp uống nhiều rượu vang đỏ có chất kháng ốc-xy và nhất là resveratrol.
Nghịch lý về thuốc chống cholesterol
Có hơn 6 nhóm thuốc làm hạ cholesterol trong máu được chính phủ Hoa Kỳ chấp thuận cho bán ở dược phòng, nhưng chỉ có nhóm thuốc statin đã chứng tỏ giúp bệnh nhân ngừa khỏi biến chứng tim mạch và sống lâu. Các nhóm thuốc kia, mặc dù hạ thấp cholesterol nhưng không ngăn ngừa được bệnh tim mạch. Hoá ra thuốc statin còn có tác dụng chống viêm, làm thành mạch máu trơn láng hơn, và có thể tăng thêm tuổi thọ với tác dụng trên tế bào.
Nghịch lý về biến chứng của Tiểu Đường loại 2
Mặc dù Hoa Kỳ đã và đang trải qua cơn dịch Tiểu Đường loại 2 với tiềm năng gây biến chứng tim mạch, trên thực tế số lượng tim đột quỵ (heart attack) và tai biến mạch máu não cùng tỷ số tử vong đã giảm đi từ 15 năm nay. Lý do là thuốc statin và các thuốc chống áp huyết cao đã được dùng rất phổ thông cho người Mỹ.
Nhờ cuộc khảo cứu của Đại Học Tulane và bài báo cảnh tỉnh của ký giả O’Connor mà hôm nay chúng ta biết rằng các “nghịch lý” kể trên không phải là nghịch lý gì cả. Y học và Chính phủ Hoa Kỳ đã sai lầm khi cổ võ và áp dụng cách dinh dưỡng thiếu chất béo. Cuộc khảo cứu 7 quốc gia cuả GS Keys đã bị các khoa học gia đương thời duyệt lại và cho thấy ông đã phạm nhiều sơ xuất dẫn đến kết quả không đúng với sự thật.
Ăn ít chất béo còn có hại cho sức khoẻ tổng quát vì cơ thể sẽ bị thiếu các sinh tố quan trọng hoà tan trong chất béo như sinh tố A, sinh tố D và sinh tố K.
Ăn thiếu chất béo, nhất là chất béo động vật, gây ra chứng xuất huyết não sau 45 tuổi với số tử vong cao như đã tường trình từ các nghiên cứu trên nữ điều dưỡng Mỹ (2001), người Nhật (2003) và người Ấn Độ (2012). Thiền sư Thích Nhất Hạnh bị xuất huyết não gần đây có lẽ vì tuổi cao và thiếu chất béo động vật như đã chứng tỏ qua các khảo cứu kể trên?
Ngoài ra, nhiều chứng ung thư thường xảy ra trên người có lượng cholesterol trong máu rất thấp, nhưng cho đến nay Y học vẫn chưa chứng minh được là ung thư làm hạ cholesterol hay thiếu cholesterol gây ra ung thư?
Kết Luận:
Hiện nay người Mỹ vẫn còn theo tiêu chuẩn ăn bớt chất béo cổ động bởi chính phủ Hoa Kỳ với lượng dầu mỡ dưới 30% của tổng số calorie tiêu thụ, và vì thế đã ăn quá nhiều đường bột để bù đắp với hậu quả tai hại. Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama buộc các em học sinh trường công lập Mỹ ăn trưa với thực phẩm ít béo ít đường từ quầy ăn nhà trường làm thức ăn tồi tàn và dở ẹc như nhai giấy bìa; tội nghiệp các em đang sức lớn mà đói meo. Các chuyên gia về bệnh tim còn sai lầm khi họ muốn giảm chất béo xuống đến 10% mỗi ngày, mặc dù làm như vậy sẽ tăng hiểm nguy của xuất huyết não. Theo nghiên cứu mới nhất đã nói ở đầu bài, nhóm tiêu thụ hơn 40% chất béo cho tổng số calorie từ thực phẩm đã xuống ký vì ăn mau no, ăn bớt đường bột, nên giảm nguy cơ của bệnh tim mạch. Chúng ta nên ăn uống thoải mái, thêm thịt cá gà vịt trứng tôm cua… với nhiều chất đạm và chất béo; không phải kiêng khem gì ngoài việc ăn bớt đường bột cơm gạo, và ăn thêm rau quả. Vào siêu thị chúng ta không mua thực phẩm Low Fat và No Fat và nhất quyết không tiêu thụ thực phẩm có chứa trans fat.
Trans fat thực vật là chất béo xấu duy nhất cho con người hiện nay.
Chất béo tốt là mono-unsaturated fat và omega-3-fatty acid có tác dụng chống viêm và ngừa bệnh tim mạch. Thực phẩm với chất béo tốt gồm có dầu olive, dầu canola, dầu gan cá, trái bơ (avocado), mỡ vịt, dầu dừa, dầu đậu phụng, lòng đỏ trứng, và còn nhiều nữa.
Chất béo bão hòa từ mỡ bò, heo, hay chất béo poly-unsaturated từ dầu đậu nành, dầu bắp, v.v., cũng không độc hại gì nếu ăn vừa phải. Người ăn nhiều cá hay gà vịt rất ít khi bị tai biến mạch máu não, trong khi người ăn thiếu mỡ bị xuất huyết não nhiều hơn như chúng ta đã biết.
Pham H. Liem, MD
Một kinh nghiệm quý giá của người đã mắc bệnh UNG THƯ
Thanh Hương - (Bob Jane fb)
Các bạn thân mến,Thanh Hương xin viết ra những gì Thanh Hương biết để tất cả các bạn tham khảo, có ích cho chính mình, thân nhân và bằng hữu vì mầm Ung Thư hiện diện trong tất cả mọi người, chỉ đủ cơ hội là nó bùng phát.
Thanh Hương đã kinh qua một thời gian bệnh Cancer: gồm 3 tháng dò tìm bệnh, 8 tháng trị chemotherapy, 1 tháng Radiotherapy, còn thử máu thì lia chia…vậy mà ròng rã 1.5 năm mới vượt qua khỏi.
Thời gian tìm bệnh cũng nhiêu khê vì có nhiều kỹ thuật đang dùng vẫn không đáng tin cậy như Ultra Sounds, Mammogram, Needle Biopsy: hễ họ nói có thì chắc có bệnh, nếu nói không thì phải xét lại, vì lấy sample sai chổ, vì sớ thịt quá condense…
Cũng tại bệnh Tiểu Đường, khiến ăn cơm rất ít; trời lạnh mau đói, lại thêm bạn chỉ cách làm Nem Chua (sau này mới biết bột làm Nem Chua có nhiều Hàn The), tự làm ăn thấy ngon, nên ăn lai rai…cộng thêm làm việc tối đa, lo toan nhiều việc, phiền não cũng bộn…Cuối cùng rước bệnh cũng là lẽ tất nhiên.
Cũng vì bệnh, sau khi mổ, bệnh viện dạy cách meditation (tĩnh tâm), làm theo họ chỉ; bỗng chợt nghĩ ra cái vụ Thiền này còn ai hơn Đức Phật, mình mang tiếng theo đạo Phật mà chả biết gì cũng thật uổng, ngày xưa đi học, đeo đuổi riết con đường khoa cử, giờ đây xem ra cũng gần đất xa trời, cũng nên tìm hiểu đạo Phật xem sao… Thế là con đường ” Hướng về cõi Phật” bắt đầu từ đó.
Khi phát giác ra bệnh, phần chánh vẫn phải nhờ chiếu tia X (Radiotherapy), dùng thuốc tây rất mạnh một lúc cho vào vài loại, thuốc truyền vào gân máu (Chemtherapy), thuốc vào tới đâu là ớn người đến đấy.
Thường thì thuốc rất mạnh, chính nó cũng làm người bệnh suy yếu vì đặc tính của tế bào ung thư là cứ sinh sản lia chia, nên thuốc cứ tìm tế bào nào đang sinh sản là thanh toán. Tế bào bình thường của cơ thể cũng đang sanh sản, nhưng ít hơn tế bào Ung Thư, nên sau khi vào thuốc lần đầu sẽ bị lở màng bên trong miệng, sau cỡ 3 lần tóc rụng gần hết như bệnh ban, và chấm dứt kinh nguyệt (nếu người bệnh còn trẻ dưới 43 tuổi, sau khi chấm dứt trị liệu sẽ có kinh nguyệt trở lại).
Có người yếu hơn, có thể chết chỉ sau 3 lần vào thuốc (cứ 2 tuần vào thuốc 1 lần).
Bạch Huyết cầu và hồng cầu cũng bị tiêu diệt rất rất nhiều, do vậy người đang trị bệnh trở nên xanh xao, vàng vọt hơn vì hồng cầu xuống quá thấp, và người bệnh dễ mắc các chứng bệnh truyền nhiễm khác vì bạch cầu cũng xuống rất thấp, do vậy trước khi vào thuốc, phải đi thử máu để họ đo hồng cầu và bạch cầu có xuống quá tệ chăng, thì chờ thêm 1 tuần nữa cho lại sức để sẵn sàng cho cuộc “hành quân” kế tiếp.
Nói chung khi thuốc vào, tức thì thấy bồn nôn, ói mửa liền tù tì… thuốc làm cho xiểng niểng, làm te tua còn hơn trước khi cho thuốc. Chỉ duy có 1 hy vọng là nó kill giùm các tế bào ác tính ấy.
Còn Radiotherapy, tuỳ theo bệnh nặng nhẹ, cũng phải làm hàng ngày kéo dài cả thán , mỗi ngày họ chiếu tia X vào chỉ 4 phút, và da sẽ bị burn dần dần. Bác sĩ này phải tính toán rất hay để tia X chỉ đến phần thịt mà không đến phần xương; bởi vì thân mình không thể phẳng, họ phải tính tia X đến phải dừng theo hình cong của cơ thể. Nếu không chính xác, tia X sẽ burn xương và làm dòn xương, có thể gẫy xương.
Tóm lại đối với người bệnh Cancer, có nhiều việc phải chú ý, phụ vào sự trị liệu của bác sĩ: 1. Không cho thêm vào người những chất tạo Cancer nữa:
a. Hàn The (làm dòn, dai thức ăn biến chế) nên xem lại các món có nó như thịt Nem Chua, Nem Nướng…check lại xem trong nhiều thức ăn biến chế như bánh tráng, bánh phở, mì…họ có cho thêm chăng?
b. Sau này hàng Trung Quốc bị các nước phát giác có rất nhiều chất gây hại sức khỏe, nhất là Ung Thư, có những nước tương chứa chất gây Cancer 5000 lần hơn bình thường! Có cả list nhiều hiệu nước tương không thể dùng! nếu kỷ nên dùng nước tương của Singapore , Nhật, Đức
c. Thịt nướng bị cháy không nên ăn, chất bị cháy cũng là nguyên nhân gây bệnh.
Tránh xa tia Microwave, khi xài oven nên đứng xa dù họ bảo window của nó không leaking các tia.
d. Không ăn thịt đỏ như thịt bò, thịt heo, nên ăn thịt trắng như thịt gà, nhớ tránh ăn cánh gà, vì nơi đây người nuôi hay chích hormone cho gà mau lớn, mau bán…độc
Nói chung bớt thịt, thêm rau cải.
e. Tránh chất béo, tránh quá nhiều đường, 2 thứ này tế bào Ung Thư ưa thích.
f. Nắng gắt có nhiều tia tử ngoại UV cũng làm ung thư da, đừng tưởng xài cream chống nắng là OK, rồi ra phơi nắng (để thêm vitamin D) ( lớp ozone ( là phân tử có 3 nguyên tử Oxygen) trên bầu khí quyển bị trống 1 lổ to, do khí thải của các nước phát triển kinh tế, quá nhiều nhà máy phun ì xèo khói, có nhiều carbonic bay lên làm phá dần lớp Ozone che chở ấy!)
Thức uống trong siêu thị cũng bỏ nhiều chất chống hư = chất bảo quản (preservatives), cũng không tốt, ăn và uống các thứ trái cây rau cải tự nhiên không qua biến chế, để dành lâu vẫn tốt hơn.
(chuyện đến đây là hết mức của mình, nếu nói xa hơn, trái cây rau cải, người trồng cũng bỏ phân bón hoá học, thuốc trừ sâu bọ…để cho ra hoa quả tươi tốt, được mùa, giữ lâu không hư khi bán…). [Hồi đó thấy dân tây phương tự trồng rau trái, lấy làm lạ sao họ chịu khó đến thế! thì ra là vậy: sợ Ung Thư quá chừng chừng!]
g. Có những người làm trong phòng thí nghiệm, cũng nên lưu ý có nhiều hoá chất gây ung thư gọi là Carcinogen.
h. Thứ mà mình ít lưu ý là tránh mua nhà gần các vùng điện cao thế, nơi đó nhà rẻ hơn, VN ta thích rẻ, không để ý việc nguy hiễm vô hình, âm thầm!
i. Một thứ không ai biết là có những vùng, phía dưới có chất phóng xạ (tia phóng xạ vào người sẽ bắn tứ tung hết tế bào này qua tế bào khác), từ đất chất phóng xạ lúc nào cũng phát ra nào ai biết được! chuyện này đành xí cho trời đất thôi, nói cho đủ vậy mà. (Thật ra sinh viên đi học, có bài vật lý cũng học về chất phóng xạ, có khi chưa học lý thuyết đã cho thực tập, họ đã dặn dùng kẹp gấp nó, mà rớt tới rớt lui, có khá nhiều sinh viên cũng thò tay bóc nó mà không biết trực tiếp tiếp xúc càng nguy cơ Ung thư!)
Có nhiều phương pháp tìm bệnh phải nhờ chất phóng xạ để biết chổ nào tim nghẹt, chổ nào đang bị Ung Thư…như là làm MRI, họ chích 1 lượng rất ít chất phóng xạ, sau đó cho nằm dài trong 1 máy to, giữ im lìm như khúc gỗ trong suốt thời gian máy rà từ đầu đến chân để tìm xem có Ung Thư chổ nào! Khi bị Ung Thư mà nghe cho thêm phóng xạ vào là lo lắm, nhưng họ bảo đảm là lượng rất nhỏ không gây bệnh! đành vậy thôi!!) 2. Dùng các dược liệu:
Chống Ung Thư là chống các gốc tự do, free radical, uống 3 vitamin cần kết hợp là (A+C+E) để chống các gốc tự do ấy.
a. Tỏi có khả năng chống Ung Thư và kháng trùng, tạo thêm kháng thể ,vì trị Ung Thư nên dùng liều khá hơn bình thường, có thể dùng rượu Tỏi (2 củ tỏi xay cho vào 200 ml rượu), mỗi ngày 3 lần, mỗi lần 1 muỗng canh.
b. Cabbage = Cải bắp: dùng máy Extractor, sẽ rút nước, bỏ xác, mỗi bắp cải có thể rút ra 500ml, mua vài bắp rút ra được nhiều hơn, mổi ngày uống 250 ml hay 1 ly.
c. Măng Tây, broccoli
d. Chống Ung Thư là chống các gốc tự do, free radical, uống 3 vitamin cần kết hợp là (A+C+E)để chống các gốc tự do ấy, các vitamin này có thể mua ở dạng tablet hay mình có thể xây sinh tố uống rất hiệu quả, có lần xem TV thấy 2 ông bà uống 3 tháng hết bệnh: họ xây cam, bôm, cà chua, cabbage, cà rốt…
e. Có thể xay Lô Hội và bỏ thêm 1 muỗng Mật Ong để cơ thể khoẻ hơn, thêm kháng thể. 3. Giữ thân khoẻ mạnh, tâm an vui:
a. Tập thể dục, massage cho máu chạy đều hoà, cho các chất ăn uống trên phân phối đầy đủ cơ thể.
Kèm theo thở theo kiểu thở bụng để thêm tối đa oxygen và thải toàn vẹn carbonic.
Thở bụng là bắt đầu thở ra trước, khi thở bụng hóp từ từ, cách mô sẽ kéo lên, khí sẽ lùa ra hết, sau đó hít vào từ từ, cách mô kéo xuống, buồng phổi sẽ to ra, chứa nhiều không khí hơn, đến khi hết hít vào thêm được, ngưng 1 chút để áp lục này sẽ làm sự trao đổi khí hiệu quả, oxy vào máu, carbonic thải ra phổi, và sau đó thở ra, cứ thế mà làm.
Thở bụng có thể thực hiện lúc nào cũng nên, ngay cả trước khi ngủ cũng sẽ cho giấc ngủ sảng khoái không mộng mị.
b. Tâm an vui: Người bệnh Ung thư, thường không là người èo ọt, rất active, nên đôi khi làm quá sức của mình, và lắm khi cũng rơi vào stress…khi bệnh không làm gì được lại xuống tinh thần, buồn rầu, lo âu…: những thứ này sẽ làm bệnh tệ ra; cho nên phải giữ tinh thần vững chãi, chấp nhận việc gì đến cứ đến, nếu cần tập Thiền cũng là cái lợi không những cho sức khoẻ mà còn cho tinh thần, và xa hơn nữa là cho tâm linh.
Chính cái thở sẽ là trung gian giữa thân và tâm linh, khi biết điều hoà hơi thở đến nhẹ nhàng, cũng là làm cho tâm thanh thản, sẽ điều hoà hai hệ thần kinh Trực Giao Cảm và Đối giao Cảm sẽ làm mạch máu mở rộng để máu đến nuôi tế bào thần kinh đầy đủ, rồi làm tâm yên bình và sẽ có thêm đạo lực, khiến tâm không chao đảo trước nhiều tình huống, và khi gần với đạo, sự chết nếu đến sẽ không còn gì đáng sợ, nhưng cũng trong cái không còn sợ chết ấy cũng là chổ có thể còn sống.
Nói chung bệnh Ung Thư phát giác càng sớm càng có cơ hội sống sót, chờ nó phát tát (di căn) qua chổ mới là không thuốc trị cho nên từ lúc không bệnh, nên biết để sinh sống hầu ngăn ngừa.
H viết một lèo và gởi nên khó đầy đủ như ý, nhưng cũng tạm đủ cho người cần nó.
Viết dài, thường sau khi gởi đi mới phát giác trật vài lỗi chính tả, vậy xin các bạn miễn chấp nhé.
Các bạn có thể chuyển cho bất cứ ai cũng là điều nên làm, vì may ra có thể giúp những người chưa bệnh sẽ không bệnh.
Thân ái
Thanh Hương
No comments:
Post a Comment