Đồng Văn, Hà Giang
Bộ
ảnh cảm nhận được sau hành trình bằng xe
máy dài tám ngày, từ Hà Nội lên khám phá những cung đường hiểm trở ở miền núi
đông bắc Việt Nam.
Lên
đường
Nếu
tìm kiếm trên Google từ khoá "Đồng Văn" có lẽ bạn sẽ không tìm được
mấy thông tin. Cho tới tận 2013 thì miền núi đông bắc này vẫn thuộc sự kiểm
soát của quân đội và để tới được đây, người nước ngoài phải xin giấy phép qua
những thủ tục khét tiếng là khó khăn.
“Vấn
đề là ở Sa Pa người ta đã quen với du khách và không
còn thích thú với việc kết bạn nữa. Nhưng ở Đồng Văn, người dân vẫn mặc đồ
dân tộc truyền thống, sống theo cung cách có từ xưa và rất vui vẻ gặp gỡ bạn.”
Do
vậy, tôi đã rời khỏi thủ đô Hà Nội giao thông lúc nào cũng tấp nập để làm
hành trình tám ngày tới Đồng Văn, có hướng dẫn viên đi cùng, trên chiếc xe máy
cổ Royal Enfields 500cc Bullet, háo hức muốn tới nơi mà hiếm người nước ngoài
nào tới Việt Nam từng được tới.
Cung
đường xoắn tủy
Huyện
Đồng Văn là nơi khá xa lạ cho du khách nước ngoài, bởi đa phần đường sá và các
rặng núi nơi đây không có biển báo bằng tiếng Anh. Việc tìm đường sẽ là vô
cùng khó nếu không có hướng dẫn viên địa phương đi cùng.
Nhưng
bạn không nhất thiết phải là người địa phương hay đi xe máy mới có thể cảm
nhận được hết sự kỳ diệu trong việc làm đường lên Đồng Văn. Đi cùng hướng
dẫn viên Đỗ Hữu Quyền của Mototours Asia, chúng tôi đã trải qua một ngày dựng
tóc gáy trên những khúc cua tay áo trườn bò như rắn dẫn lên rặng núi ở độ cao
chừng 1.500m.
Khi
rời Hà Nội, Quyền nói với tôi rằng những con đường và phong cảnh của Việt Nam
là tuyệt nhất, đẹp hơn cả ở Lào, nơi được nhiều người cho là thiên đường của
dân đi du lịch bằng xe máy.
Cho
tới khi được chứng kiến những cung đường như thế này, tôi thực sự công nhận
anh ấy nói đúng.
Ruộng
lúa
Càng
đi lên phía bắc, núi càng trải rộng. Chúng tôi chạy xe tới 250km một ngày qua
các trái núi xen lẫn những triền lúa - một hình thức canh tác nông nghiệp từ
xa xưa, được cho là đã có ở Việt Nam cả 10 ngàn năm nay.
Tháng
Hai, khi chúng tôi đi, là giữa mùa khô, cũng là lúc các ruộng lúa ngả màu nâu
sậm. Nhưng trong mùa mưa, từ tháng Tư tới tháng Mười, những nơi đó bừng lên
sắc xanh, vàng của cây lúa.
Dệt
vải
Một
trong những nét hấp dẫn nhất trong chuyến khám phá miền đông bắc Việt Nam là
cơ hội được gặp gỡ, trò chuyện với người Hmong, một sắc dân thiểu số sinh
sống ở các vùng núi Đông Nam Á.
Họ
thường dễ nhận ra nhờ trang phục sáng màu, với các bộ váy áo, khăn choàng,
khăn quàng cổ được trang trí tỷ mỉ, làm bằng tay từ sợi bông và sợi gai dầu,
rồi được nhuộm màu từ các loại lá, củ để có sắc hồng, đỏ, la, chàm.
Trong
một thế giới mà có rất nhiều sắc tộc chuyển sang dùng áo phông hay các bộ đồ
may sẵn tiện dụng, thì nhiều cô gái Hmong vẫn học cách dệt vải, thêu hình hoa
văn dân tộc được truyền lại từ đời bà, đời mẹ.
Trong
hình này, một phụ nữ Hmong trong trang phục truyền thống đang dệt vải ở ngoại
vi thị trấn Yên Minh, nằm cách thị trấn Đồng Văn, tức thủ phủ của huyện Đồng
Văn, chừng 90km.
Tới
Mèo Vạc
Một em bé Hmong địu đứa em gái nhỏ.
Nằm
về phía nam cách thị trấn Đồng Văn chừng 30km là Mèo Vạc, một thị trấn được
xây dựng với bê tông từ thời Liên-xô và được bao quanh bởi các ngôi làng của
người Hmong.
Trừ
các đường dây điện, xe máy tay ga và điện thoại di động hiện diện khắp
nơi, người dân nơi đây vẫn sống theo cách sống từ xa xưa.
Hàng
ngày, họ đập bò đi cày đất, làm rượu ngô, nhặt củi vụn về sưởi ấm căn nhà và
nấu ăn.
Chợ
phiên cuối tuần ở Mèo Vạc
Vào
một sáng sớm, trời vẫn tối om, chúng tôi thức dậy lúc 6 giờ và tới khu chợ
phiên nổi tiếng của Mèo Vạc. Trong những bộ quần áo đẹp đẽ nhất dành riêng cho
ngày Chủ Nhật, hàng ngàn người Hmong tới đây.
Họ
mua bản các loại sản vật như sâm, hồi, quế, những trái táo to cỡ trái lê, còn
những trái lê thì to như quả dưa, rồi mua bán thịt lợn, thịt dê, thịt chó, bún
phở và đậu phụ.
Họ
cũng bán cả rượu ngô tự chế, thứ rượu na ná như vodka với hương vị ấm ngọt và
thơm.
Tại
đây, lần đầu tiên kể từ khi rời Hà Nội tôi gặp những gương mặt phương Tây:
một cặp vợ chồng người Pháp đã nghỉ hưu tới chơi chợ trên chiếc xe mini buýt
địa phương. Họ cũng rất ngạc nhiên khi thấy tôi.
Nhà
Vua Mèo
Cách
thị trấn Đồng Văn chừng 15km về phía nam, trong thung lũng Sà Phìn là Nhà Vua
Mèo.
Đó
là một ngôi nhà hai tầng bốn chái được bảo vệ bởi những vách đá tai mèo khổng
lồ và nằm lọt giữa rừng thông.
Được
các thương gia người Trung Cộng xây hồi 1902 cho lãnh chúa người Hmong Vương
Chính Đức, tòa nhà như một pháo đài với những bức tường đá dày 500mm bao quanh
với một hàng rào đá dày 800mm, hai sảnh trời bên trong, 64 phòng ngủ dành cho
các bà vợ và con cái vua Mèo, chỗ cho lính cận vệ, một nhà chứa thuốc
phiện, và một phiến đá lớn chuyên để chặt đầu những kẻ phản bội.
Chỉ
có một vị vua Mèo nữa, Vương Chí Sình, người có cảm tình với cộng sản, sống
tại cung điện này trước khi nó bị bỏ hoang trong thời Kháng chiến chống Pháp,
1946-1954.
Ngày
nay, Nhà Vua Mèo trở thành nhà bảo tàng với bộ sưu tập nhỏ những món đồ tự
chế thời đó, được đặt trong những hộp kính phủ đầy bụi bặm.
Thị
trấn cổ Đồng Văn
Sau
bốn ngày, vượt qua 900km trầy trật trên chiếc xe cổ nhưng rất đáng tin cậy
Royal Enfield, chúng tôi tới Đồng Văn khi màn đêm đổ xuống.
Chúng
tôi nghỉ đêm tại một gia đình địa phương ở thị trấn cổ, nơi giống như mê cung
với những con ngõ rải sỏi và các tòa nhà xây bằng đá cả trăm năm trước với
những lớp mái lợp ngói nung.
Căn
nhà cổ nhất ở đây, một căn nhà lớn với hai cột đá trụ lớn và treo đèn lồng
đỏ, được nhà họ Lương xây từ 1810 đến 1820. Con cháu nhà họ Lương nay vẫn sinh
sống bên trong. Đó là một trong 40 căn nhà cổ còn lại sau trận hỏa hoạn thiêu
cháy Đồng Văn hồi 1923, trước khi người Pháp xây lại.
Đoạn
cuối con đường
Nằm
ở trung tâm chiến lược của cao nguyên ở độ cao 1.600 và chỉ cách biên giới với
Trung Cộng có 3km, Đồng Văn là tiền đồn xa nhất về phía bắc của người Pháp
trong thời thuộc địa.
Binh
lính Pháp đã dùng nhân công người Việt dưới sự cai quản của các đốc công người
Việt xây dựng một khu đồn trú lớn, nay nằm trong đống đổ nát trên đỉnh của
một trong nhiều vách đá vôi nhìn xuống thị trấn Đồng Văn.
Ba ngày ở Sapa
Đong đưa nhịp khèn, vang xa điệu sáo
Gọi tình yêu ngô lúa sắn khoai
(Nỗi nhớ của người H'mông)
Dương Toàn Thắng
Gọi tình yêu ngô lúa sắn khoai
(Nỗi nhớ của người H'mông)
Dương Toàn Thắng
Đi dự những dạ hội ở Paris, tôi thường được
ngắm trang phục sặc sỡ các sơn nữ nước ta, nhưng ở trên sân khấu chắc các cô
không có sắc đẹp hồn nhiên của phụ nữ trên các sườn đồi với những cánh đồng bậc
thang thấp thoáng ánh nắng ban chiều. Vì vậy về Hà Nội rảnh đựơc mấy hôm, tôi
không do dự ghi tên đi Sapa vài ngày. Tôi tiếc là ba ngày thì quá ngắn dù chỉ
muốn có một ý niệm nhưng thà ít còn hơn không, tôi hớn hở đáp tàu lửa lên Lào
Cai và sáng hôm sau đón xe hàng đưa đi Sapa. Bước ra khỏi thị trấn, nải chuối
bên hiên nhà, trái mít dọc thân cây, đứa trẻ nghêu ngao trên lưng trâu,...khêu
gợi biết bao kỷ niệm quê nhà tuy Sapa xa miền Trung quê tôi cả ngàn cây số....
Bản Hồ
Sapa là một tỉnh lỵ tỉnh
Lào Cai ở cực bắc Việt Bắc, tọa lạc ở cao độ 1500m cạnh một nhánh của sông
Hồng. Từ một nơi xa lánh, đầu thế kỷ XX Sapa trở thành một thị trấn với một đồn
lính và một trụ sở hội truyền giáo cơ đốc. Bắt đầu từ thập niên 50, thương mãi
được mở mang nhưng ngành du lịch chỉ theo gót phát triển mạnh mẽ sau những năm
2000. Những người dân tộc ít người (14%) H'mông, Dao ít át, mù chữ, để cho
người Kinh lo mọi chuyện hoạt động kinh tế, ngay cả gần đây tồ chức đi dạo
trong núi, về ngủ ở nhà, xem văn nghệ trong những tuyến du lịch trực tiếp dính
dấp đến người địa phương. Chính quyền hứa một cuộc phát triển kinh tế dựa lên
nền du lịch quần chúng và sự tăng trưởng kinh tế mau lẹ bắt đầu với sự xây dựng
nhà cửa, khách sạn,...nhưng đến nay vai trò của người dân tộc chưa thấy được
khuyến khích và người H'mông thấy vẫn còn nghèo khổ.
Khoảng trước đây 4000 năm,
người H'mông hay Mông sống ở vùng núi nam Trung Quốc và phía bắc căc nước Đông
Nam Á như Miến Điện, Thái Lan, Lào và Việt Nam. Cách đây hơn 300 năm, họ bắt
dầu di cư vào nước ta, sống rải rác ở các tỉnh Bắc Việt như Lào Cai, Sơn La, Hà
Giang, Điện Biên trước khi một số tiến dần vào Trung Việt định cư ở các tỉnh
Đắc Lắc, Đắc Nông trên Cao nguyên. Sau 1975, một số nhỏ người người H'mông vượt
biên qua sống ở Pháp, Hoa Kỳ,
Canađa, Úc
châu. Với dân số một triệu người, hiện nay dân tộc H'mông đứng thứ 8 trong danh
sách 54 dân tộc Việt Nam.
Các nhà khảo cứu chia người H'mông thành nhiều chi khó phân biệt trong mắt
khách du lịch : H'mông Đơ hoặc H'mông Đâu (H'mông trắng) ; H'mông Đu (H'mông
Đen) ; H'mông Si (H'mông Đỏ) ; H'mông Dua (H'mông Xanh) ; H'mông Lềnh (H'mông
Hoa) ; H'mông Xúa (H'mông Lai ; Ná Mẻo (H'mông Nước). Ơ Trung Quốc người H'mông
được gọi Miêu, ở Lào Meo, trước kia ở nước ta Mèo. Họ cùng hai dân tộc Dao và
Pà Thèn thuộc nhóm các dân tộc nói ngôn ngữ H'mông-Dao. Tuy nhiên có những nhóm
như Ná Mèo sống kề cận với các dân tộc nói ngôn ngữ Tày-Tháị-Việt-Mưòng thì hết
còn giữ những đặc tính H'mông.
Giang Tả Chải
Theo các nhà dân tộc học,
người H'mông từ miền nam Trung Quốc di cư qua Việt Nam theo ba đợt chính. Đợt thứ nhất
cuối đời Minh, đầu đời Thanh, vào lúc có phong trào người Miêu chống lại chính
sách "cài tổ quy lưu" và bị thất bại. 100 hộ thuộc các tộc Lú, Giàng,
từ Quý Châu trước qua các huyện Đồng Văn, Mèo Vạc tỉnh Hà Giang rồi dần dần
tiến sâu vào miền đông bắc Việt Nam. Trong đợt thứ hai, một thế kỷ sau, cũng
khoảng trên 100 hộ thuộc các tộc Vàng, Lý theo cùng đường qua Đồng Văn. Đồng
thời, một số ít hơn thuộc các tộc Vàng, Lú, Châu, Sùng, Hoàng, Vừ qua Si Ma
Cai, Bắc Hà tỉnh Lào Cai.
Như đợt trước, những di dân nầy dần dần rải rác khắp
các tỉnh tây bắc. Qua đợt thứ ba, vào thời "Thái Bình Thiên Quốc"
1840-1868, chồng lại triều Mãn Thanh, người Miêu tham gia đông đảo, không thành
công, khoảng trên một vạn người từ Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam chạy qua trốn ở
các tỉnh Lào Cai, Hà Giang, Yên Bái rồi lan rộng ra các miền đông bắc và tây
bắc Việt Nam. Sau các đợt chính nầy, hằng năm vẫn có người người Miêu lẻ tẻ di
cư qua, theo con đường Đồng Văn rồi xuống Tuyên Quang, cũng có một số từ Lào
đến. Số dân người H'mông tăng lên đáng kể sau 1986. Ngày nay ở Việt Nam có hơn
một triệu người H'mông trong số 9 triệu khắp thế giới, cư trú ở các tỉnh Hà
Giang, Điện Biên, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng.
Trên đường đi Lai Châu
Lao
Chải - Tả Vạn
Người H'mông sống thành bản vài chục nóc nhà khép kín, có khi tường đá
ngang đầu bao quanh. Nhà trệt, ba gian , hai chái, bưng ván, vách nứa, mái
tranh, có hai hay ba cửa. Nhà giàu có cột gỗ thông kê trên đá, gác lát ván, mái
lợp ngói âm dương. Người H'mông coi trọng dòng họ, sống quây quàn thành cụm, có
trưởng họ là người có uy tín được tôn trọng. Tình cảm sâm đậm gắn bó ngưòi cùng
họ nhưng không được cưới nhau. Thanh niên nam nữ được lựa chọn bạn đời, còn có
tục "cướp vợ", cô dâu bị chú rể bắt cóc đem về nhà sau mới báo cho
gia đình nhà gái. Thường con trai có vợ thì tách ra ở riêng. Vợ chồng thường
hòa thuận sống với nhau, cùng làm ăn, lên nương, xuống rẫy, ít khi bỏ nhau.
Người H'mông có câu "Lửa cháy đến đâu người Mông theo đến đó". Sản
phẩm nông nghiệp là ngô, khoai, vừng, đậu, mạch, rau,...lúa trong các thửa
ruộng bậc thang, các cây ăn trái như táo, đào, mận, lê,...những cây thuốc như
tam thất, xuyên khung, đảm câm,... Các nghể thủ công như đan lát, thợ rèn, đồ
gỗ, đồ đựng, giấy bản, lưỡi cày, dao cuốc, đồ trang sức bằng bạc, ngay cả nòng
súng được phát triển đa dạng, đạt trình độ cao.
Lao Chải - Tả Vạn
Người H'mông cũng như nhiều dân
tộc ít người khác theo tín ngưỡng đa nguyên, nhưng cốt yếu là thờ cúng tổ tiên.
Cũng có một số người H'mông ngày càng lớn theo đạo Thiên chúa và đạo Tin lành,
nhưng có đoàn thể tôn giáo và phi chính phủ ở ngoại quốc loan báo nhiều tín đồ
ở các tỉnh lai Châu, Lào Cay bị chính quyền đàn áp. Vừa rồi, có chuyện tập
trung đông người H'mông tại huyện Mường Nhé tỉnh Điện Biên nói lên thực tế khó
khăn của một dân tộc thiểu số.
Đàn ông H'mông mặc áo cánh
ngắn dưới thắt lưng, thân rộng, ống tay dài, đầu chít khăn hay đội mũ đính
những hình tròn bạc chạm khắc hoa văn, quần dài rộng, áo quần đều màu chàm. Phụ
nữ ăn mặc nếu không một màu xanh đậm thì rất là sặc sỡ, áo xẻ ngực có yếm, mở
chếch ngực phía bên trái, tấm xiêm trước ngực, khăn quấn đầu, xà cạp quấn hai
chân, đeo khuyên tai, vòng cổ, vòng tai, vòng chân.
Văn nghệ người H'mông khá
phong phú, đặc biệt văn học truyền miệng : truyện thần thoại về anh hùng văn
hóa, truyện dạy cách trồng ngô lúa, may áo quần, truyện cổ tích về thú vật,
nhất là con hổ. Họ rất thích dân ca dân tộc, nhưgầu plềnh (tiếng hát tình
yêu), gầu xuồng (tiếng hát cưới xin), hát khi làm việc nơi nương rẫy,
xe sợi dệt vải hay trên đường đi chợ, lễ hội. Họ dùng ngựa thổ hàng, ngựa rất
gần gũi và thân thiết với từng gia đình. Chợ phiên vừa là nơi trao đổi hàng
hóa, vừa là nơi giao lưu tình cảm..
Chợ tình ở Sapa tổ chức mỗi năm một lần tuy
sinh hoạt không còn sâu đậm như xưa. Họ có nhiều nhạc cụ dân tộc như sáo, khèn,
kèn lá, đàn môi,...sử dụng cùng với tiếng hát trong những lễ hội như lễ hầu
táo (đón năm mới). Thanh niên thưòng vửa thổi khèn vừa múa. Trai gái trao
đổi tâm tình qua kèn lá, đàn môi. Sau một ngày lao động, người H'mông thích ca
hát và dùng nhạc cụ nói lên cơn vui, nổi buồn hay ca ngợi quê hương đất nước.
Sapa
Từng
sống ở đồng quê hồi nhỏ, tôi rất thông cảm tình cảm người H'mông trông cảnh
những cánh đồng bậc thang thấp thoáng nổi bật trước những dãy núi xanh lục đủ
màu. Lấp ló sau những lùm cây là xóm làng yên tĩnh, sáng nghe tiếng gà gáy,
chiều có mây mù bao phủ. Chảy quanh xóm có con sông nhỏ, có chỗ phình rộng
thành hồ, mùa nóng tắm mát thật dễ chịu. Đối với ngưòi như tôi sống ở chốn
thành thị náo nhiệt, ồn ào như Paris,
về đây thấy như chốn thiên đàng. Mà không xa Sapa bao lăm. Bản Hồ, Lao Chải, Tả
Vận, Giang Tả Chải,...chỉ cách Sapa vài tiếng đồng hộ đi bộ. Khi đi dạo trên
các đường đê giữa các ruộng lúa vàng cũng như khi vượt con suối nhỏ dọc những
khóm hoa nuôi sực tím một màu, tôi tiếc mình không phải là nhà thơ để thả vài
câu trữ tình. Nhưng đã có người H'mông hát giùm:
Suối hát sau nhà, mây bay đầu núi
Gọi người H'mông ta đến với nhau
Nhịp nhàng múa quanh bếp lửa hồng
Nào anh nào em, gọi mùa Xuân về với bản H'mông
Gọi người H'mông ta đến với nhau
Nhịp nhàng múa quanh bếp lửa hồng
Nào anh nào em, gọi mùa Xuân về với bản H'mông
Dương Toàn Thắng
Sapa
Về với rừng, ưóc mong của người H'mông dần dần bị giới hạn vì như ở miền
Điện Biên, ngay cả ở khu bảo toàn thiên nhiên Mường Nhé, "cả trãm
nghìn hecta rừng đã bị phá, nói đúng hơn khu bảo tồn hơn ba trãm nghìn hecta
kia bị rỗng ruột từ rất lâu, nay đang tiếp tục bị xẻ thịt trên diện rộng." Theo
nhà báo Đỗ Doãn Hoàng thì người phá rừng và xẻ đất là những người di dân tự do,
những người H'Mông đi tìm nơi đất lành chim đậu. "Các xã mênh mông từ
Mường Nhé, Sìn Thầu, Chung Chải, xưa vốn chỉ có duy nhất bản Nậm Là là nơi sinh
sống của đồng bào H'mông thì nay, dân số Mường Nhé đã đến mức nửa già là người
H'mông. Hầu hết họ đến bằng con đường di dân tự do".
Số phận của
người H'mông không khác gì số phận những người dân tộc thiểu số khác, kể cả
những dân tộc trên Cao nguyên Trung Việt, nơi rừng dần bị phá hủy để người Kinh
trồng cà phê ! Những nhà dân tộc học thường bảo rừng là môi trường sinh sống
của người dân tộc thiểu số, phá rừng là cách dễ dàng nhất để triệt tiêu một dân
tộc.
Frédéric Michalak
Mấy ngày ở Sapa vui bao nhiêu với phong cảnh quê hương hữu tình thì tôi
lại buồn bấy nhiêu vì thấy tương lai mờ mịt của một số đồng bào. Trái với dân
tộc Dao, dường như trẻ em H'mông ít được đi học. Ở Sapa, chúng đi bán hàng ;
khách du lịch Tây phương đã có phàn nàn chúng hay chạy theo xin tiền...Vừa qua,
đài truyền hình A2 của Pháp có cho chiếu một chương trình "Rendez-vous en
terre inconnue" trong ấy anh chàng đá bóng bầu dục Frédéric Michalak đươc
mời về ăn ở hai tuần với một xóm người dân tộc Lôlô đen, liệu tiếp xúc với nền
vãn minh có giúp ích được gì cho tình thế hiện nay ?
Võ Quang Yến
* * *
Sử sách Đông Tây kim cổ không thiếu gì những bằng chứng về những loại thực phẩm, hoặc thuốc men khả dĩ có thể giúp con người bồi dưỡng sinh lực, giúp tăng cường và duy trì sự ham muốn. Các thứ này được gọi là cường dương (aphrodisiac)…
Bọn đàn ông chúng ta đều đã từng nghe nói đến toa thuốc “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” của Minh Mạng rồi. Tôi không biết có bạn nào đã thử chưa và cũng không biết nó có 100% effect như lời truyền tụng hay không? Đại khái toa thuốc trên gồm có các vị thuốc như sau: Thục địa, Đào nhân, Sa sâm, Dương quy Bạch truật, Phòng phong, Bạch thược, Trần bì, Xuyên Khung, Cam thảo, Phục linh, Tần giao, Tục đoạn, Mộc hoa, Kỷ tử, Thương truật, Độc hoạt, Khương hoạt, Đỗ trọng, Đại hồi và Nhục quế (theo Bs Nguyễn văn Dương).
Mấy lúc gần đây mấy bà bên nhà ùn ùn đi tìm mua trứng gà ung về cho ông xã ăn
để ổng có sức nhảy cho hăng. Đúng hay không thì chỉ có mấy bà biết mà thôi.
Hầu như các cụ ông trên 6-7 bó ít nhiều đều có vấn đề… 6 giờ 30.
Anh cột chèo với người gõ có kể lại một câu chuyện tiếu lâm nghe được trong đội bóng bàn của anh ta tại Brossard, phía Nam Montreal. Đội thể thao gồm toàn các vị cao niên… và lão ông đã gác súng về hưu. Có một vị bác sĩ cao niên đố: thuốc gì hay nhất để cho đồng hồ chạy? Đó là thuốc 4L (?), nhưng các bà vợ tức quá mới phản công lại rằng: Các ông có tài cương ẩu, dốc tổ… phải nói lại đó là thuốc 6L mới đúng. Miễn bàn.
Thật khó hiểu quá! Biết tin ai bây giờ.
Nguyễn Thượng Chánh, DVM
Montreal, 2013
Weerapong Chaipuck: Sapa tuyệt đẹp
Châu
Á là một lục địa xinh đẹp và bí ẩn với những cảnh quan ngoạn mục cùng nét văn
hóa truyền thống độc đáo. Nhiếp ảnh gia người Thái Lan – Weerapong Chaipuck đã
đi khắp châu Á và chụp lại những bộ ảnh tuyệt đẹp để minh chứng cho điều đó.
Nhìn
vào những bức ảnh của Weerapong Chaipuck, rất khó để tin rằng ông bắt đầu chụp
ảnh sau khi nghỉ hưu từ ngành y tế. Niềm đam mê của Chaipuck là du lịch và ghi
lại khung cảnh đẹp ở những nơi mà ông đã đi qua. Sapa là một trong những điểm
đến trong chuyến hành trình của ông.
Mặc
dù bộ ảnh chụp Sapa có sử dụng một số kỹ thuật hình ảnh, tuy nhiên Chaipuck nói
rằng có được ánh sáng tuyệt đẹp trong những bức ảnh là do ông chụp đúng thời
điểm trong ngày.
“Để
tạo ra những bức ảnh đẹp, bạn phải thật sự sống ở những nơi đó. Thời điểm là
yếu tố tiên quyết cho cái hồn của những bức ảnh. Tôi đã đến Sapa vào mùa gặt
trong những ngày đầy nắng. Đó là thời gian thuận lợi cho việc chụp lại những
bức ảnh đẹp với nguồn ánh sáng tự nhiên”, Chaipuck nói.
Cùng
xem bộ ảnh chụp Sapa tuyệt đẹp của nhiếp ảnh gia Weerapong Chaipuck:
Mặc
dù bộ ảnh chụp Sapa này ông có sử dụng một số kỹ thuật hình ảnh, tuy nhiên
Chaipuck cũng cho biết có được ánh sáng tuyệt đẹp trong những bức ảnh là do ông
nắm được khoảnh khắc.
Bình
minh Sa Pa
Những
người đồng bào sinh sống ở đây theo nhiều cách khác nhau, một số người sống vui
vẻ theo phương thức truyền thống, một số còn lại thì phụ thuộc vào kinh doanh
du lịch. Một nhóm người H’Mong đen chờ bán đồ lưu niệm cho du khách thì gặp
nhóm khác về nhà sau khi đã “hái củi”.
Weerapong Chaipuck
Đồng hồ của các cụ chỉ mấy giờ
Dù
ở vào thời đại nào, dù ở bất kỳ nơi nào đi nữa thì việc ăn uống đầy đủ chất bổ
dưỡng cũng là điều kiện tối cần thiết để có một sức khỏe tốt và nhờ đó mới hy
vọng có được một hoạt động sinh lý bình thường.
* * *
Sử sách Đông Tây kim cổ không thiếu gì những bằng chứng về những loại thực phẩm, hoặc thuốc men khả dĩ có thể giúp con người bồi dưỡng sinh lực, giúp tăng cường và duy trì sự ham muốn. Các thứ này được gọi là cường dương (aphrodisiac)…
Bọn đàn ông chúng ta đều đã từng nghe nói đến toa thuốc “Nhất dạ lục giao sinh ngũ tử” của Minh Mạng rồi. Tôi không biết có bạn nào đã thử chưa và cũng không biết nó có 100% effect như lời truyền tụng hay không? Đại khái toa thuốc trên gồm có các vị thuốc như sau: Thục địa, Đào nhân, Sa sâm, Dương quy Bạch truật, Phòng phong, Bạch thược, Trần bì, Xuyên Khung, Cam thảo, Phục linh, Tần giao, Tục đoạn, Mộc hoa, Kỷ tử, Thương truật, Độc hoạt, Khương hoạt, Đỗ trọng, Đại hồi và Nhục quế (theo Bs Nguyễn văn Dương).
Ngoài
ra, cũng phải nói đến các món sơn hào hải vị, nhân sâm và lộc nhung đều là
những món đại bổ thường dành cho những người nhiều tiền lắm bạc.
Đặc biệt là ở Việt Nam mình, cũng không hiếm gì những loại thuốc “tiên”, thuốc
“gia truyền”, những loại thực phẩm và những loại rượu “ông uống bà khen”, đó là
những thứ rượu thuốc bổ dương, cường tinh, như rượu Càn Long đệ nhất tửu, rượu
Hà thủ ô, rượu sâm nhung, rượu Tắc kè, Ngũ gia bì, rượu ong chúa, Dâm dương
hoắc, cao hổ cốt, hải mã, rượu rắn Hổ mang, Tam xà đại hội, rượu Bồ cạp, rượu
ong đất, rượu con bửa củi, rượu chuối hột, rượu hòa với huyết rắn hay huyết
chim se sẻ, rượu dái dê …
Theo
tâm lý của người tiêu thụ, sản phẩm càng hiếm, càng bí hiểm và càng đắt giá
chừng nào thì món hàng càng quý càng có giá trị cao chừng nấy. Hình như bên
Việt Nam
mình rất mạnh về khía cạnh này lắm… Bởi vậy hàng dỏm cũng nhiều, và lang băm
tha hồ mà hốt bạc. Ai tin thì ráng mà chịu!
Không
phải chỉ có Việt Nam
mình mới có ba cái vụ rượu thuốc phục vụ sex đâu. Các dân tộc khác cũng vậy
thôi…
Trước
năm 75, thuốc Durabolin rất phổ biến tại Saigon.
Mấy ông nào cảm thấy bình điện hơi yếu vì phải vừa phục vụ bà lớn vừa làm vui
lòng bà nhỏ, có thể ghé tiệm thuốc Tây Ngọc Lan mua 1-2 hộp Durabolin về nhờ y
tá trong xóm lụi cho vài mũi để lấy lại sức mà làm ăn tiếp…
Tại
Montréal, hốt một toa thuốc Bắc đại bổ để ngâm rượu cũng phải từ 100$ trở lên
mới bảo đảm chất lượng khá được…
Cẩu nhục (thịt chó), thịt sư phụ (thịt dê), cũng nằm trong thành phần của vài toa thuốc để hỗ trợ cho ba cái vụ múa lân.
Cẩu nhục (thịt chó), thịt sư phụ (thịt dê), cũng nằm trong thành phần của vài toa thuốc để hỗ trợ cho ba cái vụ múa lân.
Mấy
năm gần đây, với sự bộc phát mạnh mẽ của phong trào thuốc thiên nhiên (Produits
naturels, herbal products), người ta cũng thấy xuất hiện rất nhiều quảng cáo
nói về đủ loại thuốc cứu tinh cho đàn ông…
Lang
băm cũng hơi nhiều! Nếu đúng như lời quảng cáo thật hấp dẫn của họ, thì có lẽ
trong tương lai vài chục năm nữa cả thế giới này sẽ không còn bệnh tật gì ráo
trọi?
Ngoài thuốc ra, châm cứu, khí công, yoga và thôi miên (hypnothérapy) cũng được người ta đồn đại là có khả năng giúp chữa trị các tình trạng rắc rối về sinh lý…
Ngoài thuốc ra, châm cứu, khí công, yoga và thôi miên (hypnothérapy) cũng được người ta đồn đại là có khả năng giúp chữa trị các tình trạng rắc rối về sinh lý…
Nói
chung, hình như phía Đông Y rất mạnh về lãnh vực này. Các món độc địa, hiếm
hoi, đắt hơn vàng và toàn là đồ quốc cấm như sừng tê giác, bột dương vật hổ,
mật gấu cũng như các loại thú rừng lạ và quý hiếm, v.v… thường được Đông Y
quảng cáo là những vị thuốc mầu nhiệm còn hơn cả Viagra hay Cialis nữa! Khoa
học phương Tây đã từng cho xét nghiệm và phân tích thành phần hóa học của các
sản phẩm trên và cho biết nó chả có chứa những gì đặc biệt hết, ngoài những
khoáng chất thông thường mà thôi…
Chỉ
tội nghiệp cho vô số loài vật hiếm quý càng ngày càng bị diệt chủng bởi tham
vọng của một số người!
Có người còn mách, nếu ‘thằng nhỏ’ khó dạy thì các bà nhớ đừng cho ông xã ăn chuối chín quá muồi, cữ ăn bún, cữ bánh hỏi, cữ cơm nhão, cữ cháo! Lỡ nó chào cờ hổng nổi đó. (Lời đồn trong thiên hạ! Hình như tôi đọc được từ tác giả Tràm Cà Mau thì phải?)
Có người còn mách, nếu ‘thằng nhỏ’ khó dạy thì các bà nhớ đừng cho ông xã ăn chuối chín quá muồi, cữ ăn bún, cữ bánh hỏi, cữ cơm nhão, cữ cháo! Lỡ nó chào cờ hổng nổi đó. (Lời đồn trong thiên hạ! Hình như tôi đọc được từ tác giả Tràm Cà Mau thì phải?)
Ăn
gì bổ nấy!
Nguyên
lý này cũng không phải mới mẻ gì cho lắm… Đông y và Tây y đều có đề cập đến
hết.
Trong dân gian Việt Nam, nhiều người tin tưởng rằng những món ăn như thịt dê, thịt chó, ngầu pín, dế bò, ngọc hành, ngọc dương hay trái dứng sư phụ (dê) đều có tính bổ dương cho đàn ông. Đây là những món ông đớp bà khen! Là đàn ông con trai với nhau, chúng ta thường hay bàn bạc và trao đổi kinh nghiệm một cách vui vẻ và thích thú mục này. Nếu có mặt các bà thì mình dám bị rủa là…“ăn làm chi ba cái thứ đồ quỉ đó”… lắm.
Mà thật đúng vậy, trong công việc hằng ngày tại các lò sát sanh ở Canada, người gõ thỉnh thoảng thấy nhà máy cho thu lượm dế của dê, cừu, bò hay ngầu pín bò tơ để bán. Mấy món lạ và độc địa này chỉ thấy bán tại một vài nơi đặc biệt như những tiệm thịt của người Á Rập ở Montréal mà thôi. Tác giả vì tánh tò mò nên đôi khi cũng có dùng thử ba cái đồ quỉ đó cho biết với người ta, nhưng sao thấy nó “cũng vậy mà thôi”. Không biết có phải tại mình ăn ít quá không đủ liều lượng chăng?
Trong dân gian Việt Nam, nhiều người tin tưởng rằng những món ăn như thịt dê, thịt chó, ngầu pín, dế bò, ngọc hành, ngọc dương hay trái dứng sư phụ (dê) đều có tính bổ dương cho đàn ông. Đây là những món ông đớp bà khen! Là đàn ông con trai với nhau, chúng ta thường hay bàn bạc và trao đổi kinh nghiệm một cách vui vẻ và thích thú mục này. Nếu có mặt các bà thì mình dám bị rủa là…“ăn làm chi ba cái thứ đồ quỉ đó”… lắm.
Mà thật đúng vậy, trong công việc hằng ngày tại các lò sát sanh ở Canada, người gõ thỉnh thoảng thấy nhà máy cho thu lượm dế của dê, cừu, bò hay ngầu pín bò tơ để bán. Mấy món lạ và độc địa này chỉ thấy bán tại một vài nơi đặc biệt như những tiệm thịt của người Á Rập ở Montréal mà thôi. Tác giả vì tánh tò mò nên đôi khi cũng có dùng thử ba cái đồ quỉ đó cho biết với người ta, nhưng sao thấy nó “cũng vậy mà thôi”. Không biết có phải tại mình ăn ít quá không đủ liều lượng chăng?
Chuyện
trứng ung có tác dụng như Viagra hay ăn trứng thúi bổ chim
Chuyện
hết xí quách, chê cơm, chê cháo, ngán phở không còn lạ gì với đám nình ông mà
đặc biệt là các cụ tuổi tác “đã khá cao”.
Coi chừng đó chẳng qua là khôn chợ dại nhà hay sung với bồ nhưng xìu với vợ đó.
Nguồn tin trứng gà thúi có công dụng như Viagra đã làm nhiều người nức lòng đáo để.
Viagra thì khó mua mà giá lại quá đắt (Viagra thứ thiệt bán có toa, giá cũng phải trên 15$/viên 100mg tại Bắc Mỹ).
Tại Montreal, lúc bán sale 3 vỉ hột gà loại Large chỉ bán có 5$ mà thôi (36 trứng). Muốn làm cho hột gà thúi thì dễ òm.
Tin hấp dẫn trên xuất phá từ một khảo cứu của Giáo sư Giuseppe Cirino (University of Naples). Ông ta cho biết gas hydrogen sulphide (H2S) của hột gà thúi kích thích não bộ làm cậu bé chào cờ. Tin này được đăng tải trong tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences.
Page
last updated at 11:01 GMT, Tuesday, 3 March 2009
Nguồn tin trứng gà thúi có công dụng như Viagra đã làm nhiều người nức lòng đáo để.
Viagra thì khó mua mà giá lại quá đắt (Viagra thứ thiệt bán có toa, giá cũng phải trên 15$/viên 100mg tại Bắc Mỹ).
Tại Montreal, lúc bán sale 3 vỉ hột gà loại Large chỉ bán có 5$ mà thôi (36 trứng). Muốn làm cho hột gà thúi thì dễ òm.
Tin hấp dẫn trên xuất phá từ một khảo cứu của Giáo sư Giuseppe Cirino (University of Naples). Ông ta cho biết gas hydrogen sulphide (H2S) của hột gà thúi kích thích não bộ làm cậu bé chào cờ. Tin này được đăng tải trong tạp chí Proceedings of the National Academy of Sciences.
Phải
chăng ăn trên bổ dưới?
Hình như văn hóa ẩm thực của người mình có liên hệ rất mật thiết với ba cái chuyện đó!
Thôi làm bậy với người gõ một ly, còn chuyện gì khác thì để tối nay hãy tính.
Hình như văn hóa ẩm thực của người mình có liên hệ rất mật thiết với ba cái chuyện đó!
Thôi làm bậy với người gõ một ly, còn chuyện gì khác thì để tối nay hãy tính.
Phải
chăng thuốc 4L hiệu nghiệm nhất?
Anh cột chèo với người gõ có kể lại một câu chuyện tiếu lâm nghe được trong đội bóng bàn của anh ta tại Brossard, phía Nam Montreal. Đội thể thao gồm toàn các vị cao niên… và lão ông đã gác súng về hưu. Có một vị bác sĩ cao niên đố: thuốc gì hay nhất để cho đồng hồ chạy? Đó là thuốc 4L (?), nhưng các bà vợ tức quá mới phản công lại rằng: Các ông có tài cương ẩu, dốc tổ… phải nói lại đó là thuốc 6L mới đúng. Miễn bàn.
Thật khó hiểu quá! Biết tin ai bây giờ.
Montreal, 2013
Cái “kim đồng hồ”
Một
ông tuổi cuối thu mới sắm được một đôi giầy rất ưng ý. Vừa bước vào nhà, cụ
liền khoe với cụ bà:
- Này bà! Bà có nhận ra điều gì khác lạ trên người tôi không?
- Này bà! Bà có nhận ra điều gì khác lạ trên người tôi không?
Cụ bà nhìn sơ rồi đáp:
- Tôi chẳng thấy gì khác lạ cả! Vẫn cái áo ông mặc từ tuần trước. Cái quần vẫn cáu bẩn như vậy!
- Tôi chẳng thấy gì khác lạ cả! Vẫn cái áo ông mặc từ tuần trước. Cái quần vẫn cáu bẩn như vậy!
Bực mình, cụ ông vào phòng cởi bỏ hết quần áo, đi ra hỏi bà vợ:
- Thế nào, bây giờ bà có thấy điều gì khác lạ trên người tôi chưa?
- Tôi chẳng thấy điều gì khác lạ cả! Vẫn là cái “kim đồng hồ” lúc nào cũng chỉ sáu giờ rưỡi! - Cụ bà thở dài.
- Thế nào, bây giờ bà có thấy điều gì khác lạ trên người tôi chưa?
- Tôi chẳng thấy điều gì khác lạ cả! Vẫn là cái “kim đồng hồ” lúc nào cũng chỉ sáu giờ rưỡi! - Cụ bà thở dài.
Cụ ông hớn hở:
- Phải rồi! Nó chỉ sáu giờ rưỡi bởi vì nó đang nhìn xuống đôi giầy mới của tôi đây này!
- Phải rồi! Nó chỉ sáu giờ rưỡi bởi vì nó đang nhìn xuống đôi giầy mới của tôi đây này!
Cụ bà bỗng tươi tỉnh hẳn lên:
- Ừ nhỉ! Vậy ngày mai ông đi mua mũ mới đi!
- Ừ nhỉ! Vậy ngày mai ông đi mua mũ mới đi!
Thịt dê cứu tinh của phe đàn ông
BaoMai
Ở
miền Bắc VN, nghe nói có món tái dê rất độc dáo. Món nầy mà chấm với
tương bần thì chắc là hết xảy phải biết, bởi vậy dân gian mới có câu:
Tái dê chấm với tương bần,
Ăn vào một miếng bần bần như dê.
Đêm về vợ lạy tỉ tê,
Tối mai ta lại Tái dê tương bần.
Ăn vào một miếng bần bần như dê.
Đêm về vợ lạy tỉ tê,
Tối mai ta lại Tái dê tương bần.
Còn
món dê Hà nàm nghe đâu cũng thuộc loại ngoại hạng và huyền bí lắm vì
được chế biến từ phôi dê con còn trong bụng mẹ. Theo lời đồn của mấy tay
nhậu, thì đây là món thần sầu quỷ khóc chỉ cần ăn thử một lần là trong
người sẽ nóng lên rạo rực bừng bừng y như hồi mình hồi còn trai tráng,
dám làm sập giường sập chiếu hết. Sao cái món nầy giống cái món dã man
ăn thai nhi của một số người Trung Quốc quá vậy!... Quý bạn nào yếu bóng
vía xin đừng xem những hình nầy trong Internet. Tác giả cũng hơi nghi
ngờ về sự xác thực và tự hỏi có phải đây là những hình của phe đối lập
Pháp Luân Công tung ra chăng?
Nghề ăn cũng lắm công phu
Qua
thăm dò, các quán nhậu bên nhà cho biết đại khái là sau khi cắt cổ, dê
phải được thui bằng lửa than, sau đó thì dùng nước sôi cạo sạch trước
khi nấu thành món ăn…
Riêng
người Hoa, họ thích bỏ chung với các phụ liệu khác để thịt thêm phần
thanh ngọt và để khử bớt mùi dê. Theo thông lệ bên nhà, cái gì được
thiên hạ chiếu cố nhiều, cung không đủ cầu, thì sẽ có người tung ra hàng
dỏm. Thịt dê dỏm chen chân với thịt dê thiệt không biết đâu mà rờ.
Tại Bắc Mỹ, thịt dê thường được dùng để nướng barbecue, làm saucisse, hoặc để chiên, v.v…
Dân Bắc Phi và Á Rạp rất thích món méchoui tức là dê hoặc cừu nguyên con được lụi qua thanh sắt và đem quay nướng trên lửa.
Thịt dê và đệ tam khoái: một huyền thoại của Việt Nam
Có một điểm đặc biệt ở đa số đàn ông Việt Nam,
hễ nói đến món thịt dê là họ liên tưởng ngay đến ba cái vụ kia. Có lẽ
đây là tâm lý chung của bọn mày râu qua sự thán phục thành tích super
của «sư phụ» hay «ông thầy» chăng?
Mỗi
sáng, «ông thầy» đứng điểm danh ngay phía ngoài cửa chuồng. Hễ nường
nào có dấu hiệu hot thì «ông thầy» phóng lên liền, khỏi cần phải mời mọc
lâu lắc lôi thôi.
Nghe
bạn bè ai nấy đều ca tụng món thịt dê quá cỡ thợ mộc nên người viết vì
tánh tò mò cũng đã dùng thử đôi ba lần, nhưng sau mỗi lần ăn thì thấy nó
cũng vậy mà thôi! Chắc có thể tại mình ăn không đủ liều chăng?
Thịt
dê được sử dụng ở khắp mọi nơi trên thế giới. Mạnh nhất là khối Hồi
giáo, Trung đông, dân Á rạp, Phi châu, Nam Mỹ, dân vùng biển Caribbean,
Ấn độ, kế đến là Hy lạp, Ý, Thổ nhỉ kỳ và Trung quốc.
Riêng
tại VN, mấy năm trước đây phong trào nuôi dê nuôi cừu đã nở rộ lên rất
mạnh mẽ trên khắp cả xứ. Nhưng phải biết, cái gì cũng vậy, cần phải tuân
theo luật cung cầu, bởi vậy cho nên đến năm 2007, thì nói chung tình
hình nuôi dê bên nhà đang trên đà xuống dốc thảm thương và đã có nhiều
nhà chăn nuôi đã bị phá sản rồi.
Thịt dê tại Canada
Tại Canada, thịt dê chủ yếu nhắm vào khách hàng Hồi giáo và dân Á rạp.
Thị trường dê sống, được phân làm bốn hạng: 30lbs, 60lbs, 90lbs và 150lbs cân sống.
Đa số dê hạ thịt đều phải theo nghi thức Hồi giáo và thịt này được gọi là thịt halal.
Con vật bị chính tay người Hồi giáo cắt cổ thay vì bị bắn vào đầu như cách hạ thịt thường lệ ở tại các lò sát sinh Canada.
Thống kê năm 2001 cho biết, Canada
có một đàn dê vào khoảng 182.151 con. Nhu cầu thịt dê tăng rất mạnh
nhân những ngày lễ hội tôn giáo như lễ Ramadan của Hồi giáo hay lễ
Navadurgara của Ấn độ giáo.
Số lượng thịt dê không đủ cung ứng cho thị trường nên Canada phải cho nhập thêm thịt dê đông lạnh từ Úc châu và từ Tân Tây Lan.
Thịt dê tại Hoa Kỳ
Bộ
Canh nông Hoa kỳ USDA cho biết, năm 2007 Hoa kỳ có một đàn dê trên 3
triệu con, trong số nầy 2,2 triệu con là dê dùng để sinh sản (breeding)
và số còn lại là dê nuôi để lấy thịt. Texas đứng đầu về số dê nuôi (51%), kế đến là Tennessee.
Năm
1993, giống dê South African Boer goat được nhập thẳng từ Nam Phi để
gầy giống. Boer goat được cho phối giống với dê địa phương Spanish goat
của Hoa Kỳ để tạo ra những dòng dê có năng suất thịt rất cao.
Tuy
với một đàn dê trên 3 triệu con, nhưng Hoa kỳ hằng năm cũng cần phải
nhập thêm thịt dê. Năm 2006, 11.070 tấn thịt dê được nhập cảng từ Úc
châu và Tân Tây Lan.
Cùng
với số di dân vào Hoa kỳ không ngừng gia tăng nhu cầu về thịt dê cũng
theo đó mà tăng theo. Các lễ hội tôn giáo của các sắc dân là dịp thị
trường thịt dê rất bận rộn.
Nói chung các dịp lễ như Phục sinh (Eastern), Giáng sinh và Tết Tây, các loại dê từ 10kg đến 60kg bị hạ thịt rất nhiều.
Lễ Phục Sinh: chủ yếu là dê tơ lối 15kg.
Lễ
Ramadan của Hồi Giáo kéo dài một tháng, họ chỉ được ăn trước khi mặt
trời mọc và sau khi mặt trời lặng mà thôi. Dê sử dụng dưới 30kg.
Lễ Id al Adha: dùng dê từ 30 đến 50kg.
Lễ các sắc dân Caribbean: dê 30 - 40kg
Tết Tàu: chuộng dê nặng từ 30 - 40kg
Các
sắc dân Latino Nam Mỹ thích dê tơ (cabrito). Nếu dê to hơn thì được
quay nướng kiểu mechoui. Seco de Chivo là món thịt dê rất thường thấy
trong những dịp lễ hội của người Latino sống tại Hoa Kỳ.
Một số Mexican American chuộng thịt dê để kỷ niệm lễ Cinco de Mayo (May 5)
Ấn độ kỷ niệm lễ Dassai: sử dụng dê dực còn tơ.
Người
Do Thái cũng ăn thịt dê nhưng con vật phải được chính tay ông cố đạo
của họ (gọi là Rabin) cắt cổ và giết thịt theo nghi thức Do Thái Giáo.
Thịt nầy được gọi là thịt Kosher tương tợ như thịt Halal của bên phía
Hồi Giáo.
Tính chất của thịt dê
Thịt
dê, tiếng Anh gọi là chevon, đây là thịt dê tơ rất ngon ngọt. Thịt
nhiều nạc, ít mỡ, ít cholesterol. Dê dưới một tuổi cho thịt ngon nhất.
Nói chung, thịt dê sau khi nướng, chứa ít chất béo bão hòa hơn thịt gà
(đã được lột da) và cũng còn ít hơn cả thịt bò và thịt heo nữa.
Trở
ngại duy nhất là thịt dê có mùi khen khét, mùi dê nên nhiều người không
thích cho lắm. Đây là một điểm hơi lạ vì dê mà không ưa mùi dê.
Các người bán thịt tại Canada
có mách cách khử bớt mùi dê như sau: lấy một tí giấm, hoặc vắt hai trái
chanh vào tô thịt dê, chế vô một ít dầu ăn, trộn đều và đem cất trong
tủ lạnh trong vài giờ đồng hồ, mùi dê sẽ bớt đi.
Cách khác là chúng ta có thể dùng quế để khử bớt mùi dê, hoặc lúc nấu thịt cho sôi thì vớt bỏ bớt mỡ.
Ở Việt Nam, người ta thường khử mùi dê bằng cách bóp thịt với một tí rượu trắng có trộn gừng bằm nhuyễn. Sau đó xả lại bằng nước lạnh.
Có người dùng beer để khử mùi.
Một cách khác là có thể trụn sơ thịt trong nồi nước sôi có thêm vài tép sả hoặc một hai khúc mía.
Tác
giả cũng có nghe nói, bên nhà có người rất tàn nhẫn. Họ đổ ba xị đế vào
họng cho dê uống cho say, sau đó họ đánh con vật hay dần nó, bắt nó
chạy toé khói cho thật mệt lả, để nó xuất mồ hôi mồ hám ướt hết cả lông
cốt để đem bớt chất hôi ra ngoài rồi sau đó mới cắt cổ. Họ nói làm như
vậy thịt sẽ hết hôi và trở nên mềm và ngon hơn (?). Thấy sao mà dã man
quá xá cỡ, tội mạt kiếp nghe hôn mấy cha! Nếu làm theo kiểu nầy mà ở Tây
ở Mỹ thì đi ủ tờ gỡ lịch là cái chắc về cái tội dám hành hạ «ông thầy».
Thịt dê qua cái nhìn của Đông y
Theo Gs Đỗ tất Lợi, thịt dê có tính nhiệt và có tác dụng trợ dương, bổ huyết, rất tốt cho phụ nữ mới sinh nở.
Hầu
như tất cả bộ phận của dê đều có thể sử dụng để làm thuốc. Dái dê và
thận dê có tính bổ dương. Xương thịt có thể sử dụng để nấu cao. Thịt dê
có tác dụng giải độc, bổ huyết, chữa choáng váng, đau lưng, chóng mặt,
nhức đầu, v.v…
ThS
Hoàng khánh Hiển, Khoa học&Đời sống thì thịt dê là một loại thịt có
thể trị được nhiều thứ bệnh lắm, trong đó phải kể đến bệnh thằng nhỏ
khó dạy làm thằng lớn buồn rầu quá cỡ.
Người viết đã sưu tra rất nhiều tài liệu của các nhà chuyên môn về Đông y bên Việt Nam, thì tất cả đều nói thịt dê rất bổ và có tính trợ dương ngoại hạng.
Tuy
vậy, tác giả cũng chưa từng tìm thấy được một tài liệu khoa học nào
đáng tin cậy trong Medlines và MedPubs nói đến tính chất trợ dương của
thịt dê. Phải chăng ý niệm trợ dương trong Đông Y nên được chúng ta hiểu
theo một nghĩa rộng rãi hơn?.
Thịt
dê nhiều chất dinh dưỡng như Protein, nhiều bần tố, chất khoáng, nhiều
vitamins, nhiều chất sắt thì đương nhiên là bổ cho cơ thể rồi. Và việc
bổ chung nầy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những chuyện khác không mấy
hồi...
Tình hình thịt dê tại Montréal
Tại
Montréal, thịt dê chỉ được thấy bán trong một số tiệm thịt của người
Hồi giáo mà thôi. Thịt dê, ngọc hành hay trái dứng ‘sư phụ’, dế bò và
ngầu pín cũng có thể mua không mấy khó khăn. Muốn mua dái dê phải nói là
mình muốn mua amourettes! Đó các bạn thấy không? Đâu phải chỉ có đám
đực rựa Việt Nam mình mới chuộng mấy món ác liệt nầy đâu? Thịt dê là nỗi ám ảnh chung của bọn đực rựa Á châu và Phi châu.
Thịt
ngon nhất là phần đùi sau, gọi là gigot giá 12$/kg, các phần khác rẻ
hơn chút đỉnh. Trái dứng 9$/kg. Bảo đảm thịt đã được thú y sĩ nhà nước
kiểm soát vệ sinh và áp pru tại lò sát sinh rồi.
Không có thịt dê dỏm tại Canada đâu.
Ngược lại, bên nhà thì coi chừng, dê thiệt dê giả dê dỏm đều có cả!.
Tại
Việt Nam, nghe đâu giá 1kg thịt dê vào khoảng 50.000-60.000 đồng gì đó,
tính ra cũng còn quá rẻ so với giá thịt dê mua tại Canada.
Lai rai ba sợi với bạn bè
Mùa
hè đẹp trời, tác giả đề nghị các bạn nào chịu chơi, mua đại nguyên một
con dê (lối 12kg) đã được làm sẵn rồi. Đem về ướp theo kiểu VN, sau đó
đem ra sân nổi lửa lên quay theo lối méchoui. Làm sao có dụng cụ? Khỏi
phải lo, bạn hãy đến các tiệm cho mướn dụng cụ, chẳng hạn như tiệm Lou
Tec ở Montréal. Tại đây, bạn có thể mướn dụng cụ gồm có một cái moteur
và phụ tùng lỉnh kỉnh để quay méchoui. Tiền mướn dụng cụ lối 72$ cho một
weekend. Nhớ rủ bạn bè và cũng đừng quên phone người viết đến tham dự
cho vui và nhắn mỗi người phải nhớ xách theo rượu chẳng hạn như Porto
loại trên 10 tuổi thì càng tốt. Bảo đảm sẽ vui lắm, một dịp để gặp gỡ
bạn hiền và tha hồ vừa đớp hít vừa đấu láo chuyện trên trời dưới đất,
chuyện mấy em chân ngắn chân dài. Sau buổi nhậu mình dám quên luôn cả
đường đi lối về lắm!
Nói
giỡn cho vui vậy thôi chớ cũng đừng quên rằng “Please don’t drink and
drive”, «L’alcool au volant, c’est criminel» đó nghe hông các bạn già.
Láng cháng dám bị phú lích giam mất bằng lái đau lắm chớ chẳng phải chơi
đâu!
Kết luận
Thật
ra, tác giả cũng không biết được thịt dê thật sự có effet hay có bổ cho
ba cái vụ kia hay không? Đây chẳng qua là kinh nghiệm riêng rẽ của mỗi
cá nhân mà thôi. Một số bạn bè của người viết là dân ăn nhậu chuyên
nghiệp, họ có tật hay nổ dữ lắm và cả quyết, thề thốt rằng thịt dê rất
trợ dương. Effet ít hay nhiều tùy cũng tùy thuộc vào tuổi tác của con dê
hai cẳng, dê đực hay dê cái, dê non còn sung sức hay dê cụ đã cúp bình
thiếc rồi, và cũng tùy vào cách biến chế thành món ăn nữa. Đây là chua
kể đến vấn đề « sung với bồ, bất lực với vợ »
Có
một điều chắc chắn là phần đông các đấng mày râu trên thế giới như Việt
Nam, Trung Hoa, Thái Lan, Lào, Phi Luật Tân, Á Rạp, Phi Châu, v.v…đều
tin tưởng là vụ đó là chuyện có thiệt.
Đối
với đa số đàn ông phe ta, thịt dê đã gắn liền với đệ tam khoái trong
nhóm ANDI. Sự kiện hễ mỗi khi nói đến chữ dê là tạo trong đầu một hình
ảnh liên hệ xa gần đến trò múa lân dù rằng chưa phải là mùa Tết nhứt.
Các nhà khoa học gọi đây là tự kỷ ám thị. Phải chăng hiện tượng nầy đã
giúp phần nào cho tác dụng trợ dương.
Hình minh họa
Theo
ý kiến của cơ quan Quản trị Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ FDA, thì
không có thức ăn nào có tính trợ dương (aphrodisiac) cả. Món trợ dương
thật sự chỉ có giữa hai cái lỗ tai của chúng ta và đây chỉ là yếu tố tâm
lý mà thôi.
Khoa học gọi đây là hiệu quả vờ effet placebo!
Còn
một cách trị liệu khác đôi khi cũng có kết quả lắm mà chả cần phải ăn
thịt dê hoặc uống thuốc men gì cả, đó là áp dụng cách cấm trại chay tịnh
trong đôi ba tuần, cho tinh thần thật sảng khoái và thân xác khỏe khoắn
hẳn rồi mới xả trại. Thời gian tịnh dưỡng càng lâu thì càng tốt, nhưng
không được quá lâu sẽ quên bài hết. Đúng với câu use it or loose it! Đây
là một trong nhiều cách trị liệu theo lối thiên nhiên nếu chẳng may bị
mất điện.
Còn
các bà, các chị tuy ngoài mặt, ngoài miệng thì nói ăn làm chi ba cái
thứ đồ quỷ đó, nhưng mà trong bụng lại mở cờ, hăng hái móc hầu bao đưa
anh hai cho các ông đi mua thịt dê về nhậu cho đã đời, rồi sau đó tối
thành quỷ sống để được các bà…khen!
Sướng chưa! Chuyện khó hiểu thiệt.
Nguyễn Thượng Chánh
No comments:
Post a Comment